Topic này nhằm tìm hiểu, nghiên cứu vấn đề Tật Ách của một người thông qua lá số Tử Vi. Mời quý bạn có quan tâm thì tham gia, có kinh nghiệm thì chia sẻ. Tôi sẽ bắt đầu bằng một số bài viết của một số tác giả có tên tuổi.
Tục ngữ Trung Quốc nói rằng: "Cùng nhân vô bệnh tiện thị phú. Phú nhân vô bệnh tiện thì tiên" có nghĩa là người nghèo không bệnh là giàu, người giàu không bệnh là tiên. Dù là người nghèo hay người giàu, bệnh tật là một điều đau khổ nhất trên đời.
Thời đại hiện nay tuy y học phát triển rất mạnh, nhiều chứng bệnh đã là những danh từ thuộc về lịch sử, chẳng hạn như đậu mùa, ngày nay không thấy một em bé nào bị rỗ mặt, vốn là di chứng của căn bệnh này, nhưng người ta lại phát hiện ra những chứng bệnh khác nhiều khi rất nguy hiểm như ung thư, tim mạch, viêm gan, đái tháo đường ...
Cung Tật Ách trong TVĐS không những giúp ta biết được người ấy sẽ mắc chứng bệnh nào, mà còn cho biết tâm trạng của người ấy vui vẻ hay lo buồn. Đương nhiên không mắc bệnh thì người ta cảm thấy vui vẻ, mắc bệnh thì người ta cảm thấy lo buồn. Sao ở cung Tật Ách thường không nên quá vượng. Ví dụ như Tử Vi hay Thái Dương cư Ngọ tọa thủ cung Tật Ách đều biểu thị nhiều bệnh. Hơn nữa, sao trong cung Tật Ách cũng không nên quá nhiều, nếu nhiều thì biểu thị bệnh cũng nhiều.
Còn vấn đề bệnh gì thì phải nghiên cứu tính chất chính tinh ở đó, càng cần phải tham khảo sao trong cung Mệnh để đối chiếu. Nhưng cũng phải để ý rằng bệnh tật trong cung Mệnh cố nhiên là chủ về bệnh nghiêm trọng nhất trong đời, nhưng bệnh tật trong Đại Hạn cũng hết sức quan trọng. Khi đoán ắt phải đưa vào. Ví dụ như một người vào tuổi tráng niên, bỗng gặp đại hạn có bệnh nặng hoặc ác tật, chắc chắn là nguy hiểm khác thường, nhưng vài năm sau (đại hạn gồm 10 năm, nhưng cũng được chia 5 năm trước gọi là Tiền ngũ niên, 5 năm sau gọi là Hậu ngũ niên, sao Bắc đẩu thì chủ Tiền ngũ niên, sao Nam đẩu thì chủ Hậu ngũ niên), bệnh chợt thuyên giảm, người khỏe mạnh, bệnh như mất hẳn. Đây không phải là bệnh của Mệnh mà của đại vận, qua khỏi vận đó thì tự nhiên sẽ ổn.
Liêm Trinh có hiện tượng bệnh ung thư, nhưng ung thư có nhiều loại, ung thư gan, ung thư dạ dày, ung thư máu, ung thư ruột, ung thư phổi, ung thư vòm miệng, ung thư cổ hòng ... vì vậy phải xét khi Liêm Trinh nhập cung Mệnh thì sao nào tọa thủ cung Tật Ách, hay khi Liêm Trinh nhập cung Tật Ách thì sao nào tọa thủ cung Mệnh để đoán.
Nếu Thiên Hình hãm địa, phần nhiều là mắc bệnh bại liệt trẻ con, nếu chính tinh hãm địa có sát tinh, thì toàn thân bất lợi, còn chính tinh nhập miếu, nếu là Thiên Cơ thì bại liệt ở chân, nếu là Tham Lang thì bại liệt ở tay.
Cự Môn thuộc về bệnh suyễn, bệnh dạ dày, nếu thêm sát tinh thì có dấu hiệu bệnh ung thư phổi, ung thư dạ dày. Mệnh có Cự Môn tọa thủ mà sao ở cung Tật Ách lại vượng, hoặc Cự Môn hãm địa tại cung Tật Ách cũng dễ gặp trường hợp này. Tóm lại nên tham khảo hai cung Mệnh và cung Tật Ách để bổ sung nhau.
Còn Hồng Loan, Thiên Hỷ nhập cung Tật Ách thì phần lớn có tai nạn đổ máu. Thái Dương hãm địa thì đại tràng không tốt. Vũ Khúc hãm địa hoặc quá vượng thì phần nhiều bệnh về phổi. Tử Phủ ở cung Tật Ách thì phần nhiều là tỳ vị không tốt, nếu thêm sát tinh thì dễ ói ra máu, hành hạn nếu gặp thì cũng đoán thế. Nếu thêm Kình Dương, hoặc lưu niên Kình Dương thì có tai họa đổ máu, không tránh được chuyện dùng dao đâm chém. Cũng có khi đại hạn nhập cung Tật Ách mà tiểu hạn gặp Thất Sát hoặc Phá Quân, cũng có dấu hiệu dùng dao đâm chém.
Có khi cung phụ mẫu có Hóa Kỵ thì cung Tật Ách cũng chịu ảnh hưởng, nên phải có bệnh chợt phát chợt lành, hoặc là bệnh kéo dài không thể chữa lành. Hoặc là cung phụ mẫu có sát tinh, hay cung Tật Ách có sát tinh thì phần nhiều là bị lao, suốt đời không khỏi.
Nữ mệnh mà cung Tật Ách có Hồng Loan hoặc Thiên Hỷ mà cung phụ mẫu có sát tinh, tương xung với cung Tật Ách thì phần nhiều bị băng huyết khi sinh nở, sinh khó, sinh mổ. Nếu hành hạn gặp phải cũng luận đoán như thế.
Nếu Thiên Cơ, Thiên Mã là hai sao lưu động, đại biểu cho bệnh truyền nhiễm, nếu hành hạn vào cung Tật Ách thì phải tham khảo thêm sao trong cung Mệnh để xem bệnh gì, chưa chắc cứ Thiên Cơ là chủ về bệnh gan mật.
Không nhất định là phải xem các sao trong cung Tật Ách để suy đoán mệnh này mắc bệnh gì. Chẳng hạn dù không ở cung Tật Ách mà hễ Tử Vi, Tham Lang hoặc Liêm Trinh, Tham Lang đồng cung thì đều là hoặc vì sinh hoạt tình dục quá độ, hoặc vì tửu sắc quá độ mà có bệnh. Tham Lang càng sợ Đà La đồng cung, vì không chỉ vì sắc dục mà phạm tội, hoặc vì sắc dục mà mất sức, thậm chí còn có thể vì hưng phấn quá độ trong khi sinh hoạt tình dục mà bị trúng "thượng mã phong".
- Trích Phan Tử Ngư -
Tục ngữ Trung Quốc nói rằng: "Cùng nhân vô bệnh tiện thị phú. Phú nhân vô bệnh tiện thì tiên" có nghĩa là người nghèo không bệnh là giàu, người giàu không bệnh là tiên. Dù là người nghèo hay người giàu, bệnh tật là một điều đau khổ nhất trên đời.
Thời đại hiện nay tuy y học phát triển rất mạnh, nhiều chứng bệnh đã là những danh từ thuộc về lịch sử, chẳng hạn như đậu mùa, ngày nay không thấy một em bé nào bị rỗ mặt, vốn là di chứng của căn bệnh này, nhưng người ta lại phát hiện ra những chứng bệnh khác nhiều khi rất nguy hiểm như ung thư, tim mạch, viêm gan, đái tháo đường ...
Cung Tật Ách trong TVĐS không những giúp ta biết được người ấy sẽ mắc chứng bệnh nào, mà còn cho biết tâm trạng của người ấy vui vẻ hay lo buồn. Đương nhiên không mắc bệnh thì người ta cảm thấy vui vẻ, mắc bệnh thì người ta cảm thấy lo buồn. Sao ở cung Tật Ách thường không nên quá vượng. Ví dụ như Tử Vi hay Thái Dương cư Ngọ tọa thủ cung Tật Ách đều biểu thị nhiều bệnh. Hơn nữa, sao trong cung Tật Ách cũng không nên quá nhiều, nếu nhiều thì biểu thị bệnh cũng nhiều.
Còn vấn đề bệnh gì thì phải nghiên cứu tính chất chính tinh ở đó, càng cần phải tham khảo sao trong cung Mệnh để đối chiếu. Nhưng cũng phải để ý rằng bệnh tật trong cung Mệnh cố nhiên là chủ về bệnh nghiêm trọng nhất trong đời, nhưng bệnh tật trong Đại Hạn cũng hết sức quan trọng. Khi đoán ắt phải đưa vào. Ví dụ như một người vào tuổi tráng niên, bỗng gặp đại hạn có bệnh nặng hoặc ác tật, chắc chắn là nguy hiểm khác thường, nhưng vài năm sau (đại hạn gồm 10 năm, nhưng cũng được chia 5 năm trước gọi là Tiền ngũ niên, 5 năm sau gọi là Hậu ngũ niên, sao Bắc đẩu thì chủ Tiền ngũ niên, sao Nam đẩu thì chủ Hậu ngũ niên), bệnh chợt thuyên giảm, người khỏe mạnh, bệnh như mất hẳn. Đây không phải là bệnh của Mệnh mà của đại vận, qua khỏi vận đó thì tự nhiên sẽ ổn.
Liêm Trinh có hiện tượng bệnh ung thư, nhưng ung thư có nhiều loại, ung thư gan, ung thư dạ dày, ung thư máu, ung thư ruột, ung thư phổi, ung thư vòm miệng, ung thư cổ hòng ... vì vậy phải xét khi Liêm Trinh nhập cung Mệnh thì sao nào tọa thủ cung Tật Ách, hay khi Liêm Trinh nhập cung Tật Ách thì sao nào tọa thủ cung Mệnh để đoán.
Nếu Thiên Hình hãm địa, phần nhiều là mắc bệnh bại liệt trẻ con, nếu chính tinh hãm địa có sát tinh, thì toàn thân bất lợi, còn chính tinh nhập miếu, nếu là Thiên Cơ thì bại liệt ở chân, nếu là Tham Lang thì bại liệt ở tay.
Cự Môn thuộc về bệnh suyễn, bệnh dạ dày, nếu thêm sát tinh thì có dấu hiệu bệnh ung thư phổi, ung thư dạ dày. Mệnh có Cự Môn tọa thủ mà sao ở cung Tật Ách lại vượng, hoặc Cự Môn hãm địa tại cung Tật Ách cũng dễ gặp trường hợp này. Tóm lại nên tham khảo hai cung Mệnh và cung Tật Ách để bổ sung nhau.
Còn Hồng Loan, Thiên Hỷ nhập cung Tật Ách thì phần lớn có tai nạn đổ máu. Thái Dương hãm địa thì đại tràng không tốt. Vũ Khúc hãm địa hoặc quá vượng thì phần nhiều bệnh về phổi. Tử Phủ ở cung Tật Ách thì phần nhiều là tỳ vị không tốt, nếu thêm sát tinh thì dễ ói ra máu, hành hạn nếu gặp thì cũng đoán thế. Nếu thêm Kình Dương, hoặc lưu niên Kình Dương thì có tai họa đổ máu, không tránh được chuyện dùng dao đâm chém. Cũng có khi đại hạn nhập cung Tật Ách mà tiểu hạn gặp Thất Sát hoặc Phá Quân, cũng có dấu hiệu dùng dao đâm chém.
Có khi cung phụ mẫu có Hóa Kỵ thì cung Tật Ách cũng chịu ảnh hưởng, nên phải có bệnh chợt phát chợt lành, hoặc là bệnh kéo dài không thể chữa lành. Hoặc là cung phụ mẫu có sát tinh, hay cung Tật Ách có sát tinh thì phần nhiều là bị lao, suốt đời không khỏi.
Nữ mệnh mà cung Tật Ách có Hồng Loan hoặc Thiên Hỷ mà cung phụ mẫu có sát tinh, tương xung với cung Tật Ách thì phần nhiều bị băng huyết khi sinh nở, sinh khó, sinh mổ. Nếu hành hạn gặp phải cũng luận đoán như thế.
Nếu Thiên Cơ, Thiên Mã là hai sao lưu động, đại biểu cho bệnh truyền nhiễm, nếu hành hạn vào cung Tật Ách thì phải tham khảo thêm sao trong cung Mệnh để xem bệnh gì, chưa chắc cứ Thiên Cơ là chủ về bệnh gan mật.
Không nhất định là phải xem các sao trong cung Tật Ách để suy đoán mệnh này mắc bệnh gì. Chẳng hạn dù không ở cung Tật Ách mà hễ Tử Vi, Tham Lang hoặc Liêm Trinh, Tham Lang đồng cung thì đều là hoặc vì sinh hoạt tình dục quá độ, hoặc vì tửu sắc quá độ mà có bệnh. Tham Lang càng sợ Đà La đồng cung, vì không chỉ vì sắc dục mà phạm tội, hoặc vì sắc dục mà mất sức, thậm chí còn có thể vì hưng phấn quá độ trong khi sinh hoạt tình dục mà bị trúng "thượng mã phong".
- Trích Phan Tử Ngư -
Cung tật ách có cát tinh tọa thủ, như tử vi, thiên phủ, thiên đồng, văn xương, tả phụ, hữu bật... chủ ít tai bệnh; hội kình dương, đà la, thất sát chủ cơ thể bị thương, phá tướng; hội tứ sát, chủ khi nhỏ lắm tai bệnh, nguy hiểm.
Các cát tinh thủ chiếu cung tật ách, đều chủ ít tao họa, nếu hội tứ sát không kiếp hình kỵ tử tuyệt thì đa phần chủ bệnh tật thường xuyên.
Cung tật ách ngoài chủ bệnh tật ra, còn chủ tai ách, nhiều cát tinh thì một đời ít tai họa, sát tinh nhiều thì khó tránh tai họa.
Luận về tình trạng sức khỏe và bệnh tật của một người, cần phải xem sự hung cát miếu hãm của tinh diệu ở mệnh thân cung, hội tứ sát không kiếp kỵ thủ chiếu như thế nào, rồi lại xem sự tốt xấu của các sao cung tật ách, miếu vượng lạc hãm ra sao, và sự cát hung của cung phụ mẫu, tổng hợp mới có thể đưa ra luận đoán đại khái mà không sai lầm.
Mệnh có cát tinh miếu vượng tọa thủ, tam phương tứ chính có nhiều cát tinh mà không có hung tinh, dù cung tật ách nhiều hung tinh cũng không đáng lo, cũng không được cho rằng sức khỏe người này không tốt, hoặc dù có bệnh một thời gian nào đó cũng sẽ nhanh chóng được chữa trị; nếu mệnh cung nhiều hung tinh, tam phương tứ chính ít cát tinh, dù cung tật ách có cát tinh tọa thủ, cũng có thể cho rằng sức khỏe người này rất tốt, nếu cung tật ách nhiều hung tinh, thì người này có thể một đời lắm bệnh tật tai họa, hoặc có bệnh mãn tính khó chữa.
Con người ta có thất tình lục dục, hàng ngày tiếp thu các loại ngũ cốc, thêm vào đó là sự thay đổi khí hậu, bất lợi của môi trường, làm sao có thể không bệnh tật ? Với y học tiên tiến ngày nay, không thể hoàn toàn dựa vào những kiến thúc thuật số để chẩn bệnh, đây chỉ là một cách tham khảo mà thôi.
Các cát tinh thủ chiếu cung tật ách, đều chủ ít tao họa, nếu hội tứ sát không kiếp hình kỵ tử tuyệt thì đa phần chủ bệnh tật thường xuyên.
Cung tật ách ngoài chủ bệnh tật ra, còn chủ tai ách, nhiều cát tinh thì một đời ít tai họa, sát tinh nhiều thì khó tránh tai họa.
Luận về tình trạng sức khỏe và bệnh tật của một người, cần phải xem sự hung cát miếu hãm của tinh diệu ở mệnh thân cung, hội tứ sát không kiếp kỵ thủ chiếu như thế nào, rồi lại xem sự tốt xấu của các sao cung tật ách, miếu vượng lạc hãm ra sao, và sự cát hung của cung phụ mẫu, tổng hợp mới có thể đưa ra luận đoán đại khái mà không sai lầm.
Mệnh có cát tinh miếu vượng tọa thủ, tam phương tứ chính có nhiều cát tinh mà không có hung tinh, dù cung tật ách nhiều hung tinh cũng không đáng lo, cũng không được cho rằng sức khỏe người này không tốt, hoặc dù có bệnh một thời gian nào đó cũng sẽ nhanh chóng được chữa trị; nếu mệnh cung nhiều hung tinh, tam phương tứ chính ít cát tinh, dù cung tật ách có cát tinh tọa thủ, cũng có thể cho rằng sức khỏe người này rất tốt, nếu cung tật ách nhiều hung tinh, thì người này có thể một đời lắm bệnh tật tai họa, hoặc có bệnh mãn tính khó chữa.
Con người ta có thất tình lục dục, hàng ngày tiếp thu các loại ngũ cốc, thêm vào đó là sự thay đổi khí hậu, bất lợi của môi trường, làm sao có thể không bệnh tật ? Với y học tiên tiến ngày nay, không thể hoàn toàn dựa vào những kiến thúc thuật số để chẩn bệnh, đây chỉ là một cách tham khảo mà thôi.
---
Tật Ách cung chủ yếu khán bệnh tật về phương diện sinh lý, Phụ Mẫu cung chủ yếu khán bệnh tật di truyền cùng xem phá tướng, Phúc Đức cung thì khán bệnh tật về phương diện tâm lý, tinh thần, nếu có nhiều hung tinh tất tinh thần trạng thái có khuyết điểm, dễ dẫn tới bệnh lý mang tính mạn tính, ảnh hưởng suốt đời.
Tại cung Tật Ách, mỗi tinh diệu biểu hiện một loại bệnh lý, trong đó lấy chính tinh làm chính để coi, tối kỵ chính tinh thất hãm cùng Hóa Kị, biểu hiện thân thể bạc nhược, ám tàng các nguyên nhân gây bệnh. Xét tinh diệu cần quan trọng tính âm dương ngũ hành để tra đoán ra loại hình bệnh tật, ví như Thổ tức tì, vị, Mộc tức can, đảm, Kim tức phế phủ, phế kinh, Hỏa tức tâm, huyết quản, Thủy tức thận và hệ thống tiết niệu.
Bệnh nặng hay nhẹ cần phải xem có tứ sát đồng cung, nếu có thì nặng, không có mà tam phương lại có cát tinh thì nhẹ. Thông thường nếu có Sát Kị Hình Hao tinh diệu thì bệnh tật tất phát sinh. Phùng Hóa Kị, nhất là hạn năm lưu Hóa Kị, phát bệnh nhanh; nếu không có cát tinh mà sát kị tinh tụ, tính chất bệnh tật nguy hiểm.
---Tại cung Tật Ách, mỗi tinh diệu biểu hiện một loại bệnh lý, trong đó lấy chính tinh làm chính để coi, tối kỵ chính tinh thất hãm cùng Hóa Kị, biểu hiện thân thể bạc nhược, ám tàng các nguyên nhân gây bệnh. Xét tinh diệu cần quan trọng tính âm dương ngũ hành để tra đoán ra loại hình bệnh tật, ví như Thổ tức tì, vị, Mộc tức can, đảm, Kim tức phế phủ, phế kinh, Hỏa tức tâm, huyết quản, Thủy tức thận và hệ thống tiết niệu.
Bệnh nặng hay nhẹ cần phải xem có tứ sát đồng cung, nếu có thì nặng, không có mà tam phương lại có cát tinh thì nhẹ. Thông thường nếu có Sát Kị Hình Hao tinh diệu thì bệnh tật tất phát sinh. Phùng Hóa Kị, nhất là hạn năm lưu Hóa Kị, phát bệnh nhanh; nếu không có cát tinh mà sát kị tinh tụ, tính chất bệnh tật nguy hiểm.
Bàn về Tật Ách, ngoài Tật tức bệnh tật ra, còn quan trọng Ách tức họa ách. Trong các họa ách, họa về hình tù lao ngục là một trong họa lớn cần xem xét. Họa này thì trước tiên xem xét Mệnh cung, sau đó phối hợp cung Quan Lộc. Dưới đây là một số biểu hiện phổ biến:
Kình Đà nhập mệnh, bản tính thích tranh đấu, nên dễ phạm tội, khi hãm địa gia hội Hỏa Linh thì tính hung mạnh
Hỏa Linh nhập mệnh, bản tính táo bạo dễ bị kích động, bất kể hậu quả, hãm địa gia hội Kình Đà thì càng hung
Không Kiếp nhập mệnh, hành vi cuồng vọng, coi thường pháp luật kỉ cương, gia hội Tứ Sát Hóa Kị càng hung
Hóa Kị thủ mệnh, ích kỷ nhỏ hẹp, tư tưởng hồ đồ mê muội, gia hội Lục Sát tất hung
Trong bộ Tứ Sát, nếu Dương Linh, Đà Hỏa đồng cung tối hung, Dương Hỏa hay Đà Linh thì chế giảm lẫn nhau mà giảm hung. Tứ Sát cùng Hóa Kị, có hai sao trở nên cùng thủ mệnh cung, ngục tù khó tránh; đi cùng Thất Sát hội tụ tại mệnh cung, tỉ lệ phạm tội khá cao, lại gia hội Thiên Hình tất bị cực hình.
Sát Phá Tham Liêm Vũ Cự dữ Kình Đà thủ mệnh, lòng dạ nham hiểm, to gan lớn mật.
---Thiên Cơ tọa mệnh, tam phương hội tứ sát, trộm cướp
Thiên Cơ Tỵ Hợi thủ mệnh, gia Đà La, đầu cơ trục lợi, âm mưu hại người
Âm hoặc Dương hãm thủ mệnh, gia sát kị tinh, khuyết thiếu giáo dưỡng, dễ phạm tội mà vào tù
Vũ Khúc Đà La tại Thìn Tuất Tị Hợi đồng cung thủ mệnh, xảo quyệt dối tra, lòng tham không đáy, lừa gạt cướp bóc.
Vũ Khúc cùng Hỏa hoặc Linh thủ mệnh, tam phương lại hội Kình Đà, hám lợi đen lòng.
Đồng Âm cư Ngọ thủ mệnh, gia hội Hỏa Linh, hung ác, dễ làm sát nhân.
Liêm Tướng dữ Kình Dương đồng cung thủ mệnh, côn đồ lưu manh, quan ti lao ngục.
Liêm Phủ dữ Đà La đồng cung thủ mệnh, tâm tính tàn nhẫn, phùng Hóa Kị càng cuồng tính
Sát Phá Liêm Vũ Cự Cơ dữ Hóa Kị thủ mệnh, tam phương tái hội tứ sát.
Mệnh Thân có Không Kiếp Kị, tái gia hội chiếu tứ sát.
Hỏa Linh giáp mệnh, mệnh cung hãm không có cát tinh.
Kình Đà giáp mệnh, mệnh cung có Hóa Kị hoặc Hỏa Linh.
----Mệnh Thân có Không Kiếp Kị, tái gia hội chiếu tứ sát.
Hỏa Linh giáp mệnh, mệnh cung hãm không có cát tinh.
Kình Đà giáp mệnh, mệnh cung có Hóa Kị hoặc Hỏa Linh.
Ở đây cần căn cứ theo thuyết âm dương ngũ hành trong Đông y để phán đoán tính chất tật bệnh của nó, bởi vì Tử Vi đẩu số cùng với cơ sở triết học của Đông y là cùng từ một nguồn. Chẳng riêng sao Tử Vi, mà ý nghĩa tật bệnh của các sao khác cũng đều như vậy.
Riêng về phương diện Đông y, âm là tạng, dương là phủ. Tạng là ngũ tạng, tức là tâm (tim), can (gan), tì (tụy), phế (phổi), thận (thận); phủ là lục phủ, tức là tiểu trường (ruột non), đại trường (ruột già), đảm (mật), vị (bao tư, bàng quang) và tam tiêu (ba khoang trong cơ thể).
1. Tử Vi là âm thổ, cho nên chủ về bệnh tì tạng, nói theo nghĩa rộng là bệnh hệ thống tiêu hóa, bao gồm bệnh đường tiêu hóa, đường ruột, tức ngực, đầy hơi, nôn mửa, đi tả.
2. Thiên Cơ là âm mộc, âm là tạng, mộc là "can và đảm", cho nên Thiên Cơ ở cung Tật Ách, tính chất cơ bản là chủ về bệnh "can". Có điều "can" ở đây chưa hẳn là "gan" về phương diện giải phẩu sinh lý học, mà chỉ bộ phận chức năng "can" trong Đông y, bao gồm cả chức năng hệ thống thần kinh, cho nên nhiều bệnh tinh thần có thể quy vào bệnh can.
3. Thái Dương thuộc dương hỏa, trong Đông y chủ về tâm tạng, chủ yếu là chỉ về các bệnh hệ thống tuần hoàn máu, hoặc bệnh về thần kinh, tâm lý, vì trong Đông y chức năng "tâm" bao gồm một bộ phận chức năng não, như trạng thái tư duy, tình cảm ...
4. Vũ Khúc là âm kim, chủ phế, tức hệ thống hô hấp. Ngoài ra Vũ Khúc sát khí nặng, có tính chất chủ vết thương do kim loại, sát diệu hung tinh nhiều thì chủ thương tật tàn phế.
5. Thiên Đồng thuộc dương thủy, chủ bàng quang. Có điều bệnh thận và bàng quang có khi cũng không thể phân biệt rõ ràng, cho nên nó cũng chủ bệnh một số chức năng thận như hệ thống bài tiết nước tiểu, hệ thống sinh dục và chức năng sinh dục.
6. Liêm Trinh là âm hỏa, chủ tâm tạng (tim), huyết (máu) và hệ thống tuần hoàn. Nhưng do Liêm Trinh là sao đào hoa thứ, nên cũng liên quan tới hệ thống sinh dục.
----Riêng về phương diện Đông y, âm là tạng, dương là phủ. Tạng là ngũ tạng, tức là tâm (tim), can (gan), tì (tụy), phế (phổi), thận (thận); phủ là lục phủ, tức là tiểu trường (ruột non), đại trường (ruột già), đảm (mật), vị (bao tư, bàng quang) và tam tiêu (ba khoang trong cơ thể).
1. Tử Vi là âm thổ, cho nên chủ về bệnh tì tạng, nói theo nghĩa rộng là bệnh hệ thống tiêu hóa, bao gồm bệnh đường tiêu hóa, đường ruột, tức ngực, đầy hơi, nôn mửa, đi tả.
2. Thiên Cơ là âm mộc, âm là tạng, mộc là "can và đảm", cho nên Thiên Cơ ở cung Tật Ách, tính chất cơ bản là chủ về bệnh "can". Có điều "can" ở đây chưa hẳn là "gan" về phương diện giải phẩu sinh lý học, mà chỉ bộ phận chức năng "can" trong Đông y, bao gồm cả chức năng hệ thống thần kinh, cho nên nhiều bệnh tinh thần có thể quy vào bệnh can.
3. Thái Dương thuộc dương hỏa, trong Đông y chủ về tâm tạng, chủ yếu là chỉ về các bệnh hệ thống tuần hoàn máu, hoặc bệnh về thần kinh, tâm lý, vì trong Đông y chức năng "tâm" bao gồm một bộ phận chức năng não, như trạng thái tư duy, tình cảm ...
4. Vũ Khúc là âm kim, chủ phế, tức hệ thống hô hấp. Ngoài ra Vũ Khúc sát khí nặng, có tính chất chủ vết thương do kim loại, sát diệu hung tinh nhiều thì chủ thương tật tàn phế.
5. Thiên Đồng thuộc dương thủy, chủ bàng quang. Có điều bệnh thận và bàng quang có khi cũng không thể phân biệt rõ ràng, cho nên nó cũng chủ bệnh một số chức năng thận như hệ thống bài tiết nước tiểu, hệ thống sinh dục và chức năng sinh dục.
6. Liêm Trinh là âm hỏa, chủ tâm tạng (tim), huyết (máu) và hệ thống tuần hoàn. Nhưng do Liêm Trinh là sao đào hoa thứ, nên cũng liên quan tới hệ thống sinh dục.
7. Thiên Phủ thuộc dương thổ, ở tạng phủ là bao tử, tính chất cơ bản của Thiên Phủ khi ở cung Tật Ách là chủ về bệnh đau bao tử.
8. Thái Âm là âm thủy, trong Đông y là thận, đây là cơ năng căn bản của mạng sống, cũng chủ hệ thống sinh dục, cơ năng sinh dục, chủ yếu là chứng thận âm hư suy.
9. Tham Lang dương mộc, trong Đông y là can và đảm (gan và mật), cho nên vào cung Tật Ách, tính chất cơ bản là các bệnh liên quan tới gan, mật. Ngoài ra, Tham Lang là sao đào hoa, cho nên cũng chủ bệnh ở cơ năng tính dục, thấy tạp diệu đào hoa thì càng đúng.
10. Cự Môn thuộc âm thổ, âm thổ trong Đông y thì chủ về tì vị (bao tử và lá lách), tức hệ thống tiêu hóa. Có điều, tì là âm thổ, vị là dương thổ, cho nên phần nhiều chủ bệnh về tì, song bệnh của tì và vị ảnh hưởng lẫn nhau, nên khó phân biệt.
11. Thiên Tướng thuộc dương thủy, trong Đông y thì dương thủy là bàng quang, tức chỉ hệ thống tiết niệu. Mà bàng quang và thận thì có mối liên hệ không thể tách rời, do đó, Thiên Tướng cũng chủ bệnh về cơ năng thận.
12. Thiên Lương thuộc dương thổ, trong Đông y chủ về vị (tương đương với dạ dày), cho nên tính chất cơ bản của nó ở cung Tật Ách là bộ phận bao tử. Có điều, Thiên Lương còn có ý nghĩa phúc tinh "gặp hung hóa cát", nên tuy có tai nạn bệnh tật cũng có thể chuyển nguy thành an. Thiên Lương ở cung Tật Ách chủ bệnh đường tiêu hóa, đường ruột, phần nhiều là vì ăn uống không tiết chế gây nên tiêu hóa không tốt.
13. Thất Sát ở cung Tật Ách, tính chất cơ bản là bất lợi, khí cương khắc rất nặng. Thấy sát diệu, nhất là Kình Dương đồng độ thường chủ thuở nhỏ nhiều bệnh tật, cũng chủ tính tình nóng nảy, mà giận thì hại gan, cho nên cũng ảnh hưởng tới gan. Thất Sát thuộc âm kim, tức là phế trong Đông y, cho nên bệnh tật cũng chủ về hệ thống hô hấp, nhất là lao phổi.
14. Phá Quân thuộc âm thủy, là tạng thận, do đó, tính chất cơ bản là bệnh cơ năng sinh thực khí và cơ năng tính dục
- Theo Vương Đình Chi -
8. Thái Âm là âm thủy, trong Đông y là thận, đây là cơ năng căn bản của mạng sống, cũng chủ hệ thống sinh dục, cơ năng sinh dục, chủ yếu là chứng thận âm hư suy.
9. Tham Lang dương mộc, trong Đông y là can và đảm (gan và mật), cho nên vào cung Tật Ách, tính chất cơ bản là các bệnh liên quan tới gan, mật. Ngoài ra, Tham Lang là sao đào hoa, cho nên cũng chủ bệnh ở cơ năng tính dục, thấy tạp diệu đào hoa thì càng đúng.
10. Cự Môn thuộc âm thổ, âm thổ trong Đông y thì chủ về tì vị (bao tử và lá lách), tức hệ thống tiêu hóa. Có điều, tì là âm thổ, vị là dương thổ, cho nên phần nhiều chủ bệnh về tì, song bệnh của tì và vị ảnh hưởng lẫn nhau, nên khó phân biệt.
11. Thiên Tướng thuộc dương thủy, trong Đông y thì dương thủy là bàng quang, tức chỉ hệ thống tiết niệu. Mà bàng quang và thận thì có mối liên hệ không thể tách rời, do đó, Thiên Tướng cũng chủ bệnh về cơ năng thận.
12. Thiên Lương thuộc dương thổ, trong Đông y chủ về vị (tương đương với dạ dày), cho nên tính chất cơ bản của nó ở cung Tật Ách là bộ phận bao tử. Có điều, Thiên Lương còn có ý nghĩa phúc tinh "gặp hung hóa cát", nên tuy có tai nạn bệnh tật cũng có thể chuyển nguy thành an. Thiên Lương ở cung Tật Ách chủ bệnh đường tiêu hóa, đường ruột, phần nhiều là vì ăn uống không tiết chế gây nên tiêu hóa không tốt.
13. Thất Sát ở cung Tật Ách, tính chất cơ bản là bất lợi, khí cương khắc rất nặng. Thấy sát diệu, nhất là Kình Dương đồng độ thường chủ thuở nhỏ nhiều bệnh tật, cũng chủ tính tình nóng nảy, mà giận thì hại gan, cho nên cũng ảnh hưởng tới gan. Thất Sát thuộc âm kim, tức là phế trong Đông y, cho nên bệnh tật cũng chủ về hệ thống hô hấp, nhất là lao phổi.
14. Phá Quân thuộc âm thủy, là tạng thận, do đó, tính chất cơ bản là bệnh cơ năng sinh thực khí và cơ năng tính dục
- Theo Vương Đình Chi -
Kình Dương
Trong đời ắt sẽ có một lần gặp bệnh tật nguy hiểm, phá tướng hoặc tứ chi có thương tích, nhiều bệnh tật kéo dài. Nếu Kình Dương miếu vượng gia cát tinh thì bệnh tai nhẹ, nhưng cũng chủ tay chân hay mệt mỏi, đuối sức, hoặc có tổn thương nhẹ. Nếu thất hãm, bệnh tai nghiêm trọng, gia thêm Hỏa Linh chủ tàn tật, gia Thiên Hình, chủ có lần bị mổ xẻ. Gia Không Kiếp, một đời kết bạn với bệnh tật. Dữ Sát Phá Tham Hỏa Linh đồng cung, thuở nhỏ có thương tàn, bệnh nặng, phá tướng kéo dài. Nếu vận hạn gặp phải, bệnh phát nhanh chóng, nhưng để xác định là bệnh gì thì cần xem chính tinh cùng ngũ hành.
Kình Dương thuộc dương kim, chủ bệnh về đại tràng và đầu mặt, cũng chủ tiêu chảy, miệng mắt méo xệch, chứng động kinh, tứ chi đau nhức, thần kinh não suy nhược, động kinh, đau đầu mạn tính, thần kinh suy nhược.
Đà La
Đà La chủ trong đời dễ mắc bệnh mạn tính, mắc bệnh kéo dài dây dưa, ám bệnh triền miên. Thuở nhỏ nhiều tai bệnh, mặt có thương tích, hay bị chóng mặt. Nếu miếu vượng gia cát thì bệnh nhẹ, cũng chủ tay chân vô lực. Nếu hãm địa bệnh nặng. Gia Không Kiếp, một đời coi bệnh tật là bạn. Dữ Sát Phá Tham Hỏa Linh đồng cung, thuở nhỏ có thương tàn, bệnh nặng, phá tướng kéo dài.
Đà La thuộc âm kim, chủ bệnh phế, bệnh lao phổi, cũng chủ bệnh nấm, sỏi thận, mù mắt tai điếc, thần kinh suy nhược, chóng mặt choáng váng, đầu mặt có thương tích, gân cốt đau nhức, đau đầu mạn tính, động kinh, tâm thần phân liệt.
---
Ví dụ 1:
Đây là một lá số trung tá phải về hưu sớm do bệnh tật.Thanh niên rất khỏe mạnh, đi du học tại Liên Xô cũ, sau về Sài Gòn làm việc, lên tới chức trung tá, trong khi tương lai khá rộng mở thì mắc bệnh nghiêm trọng, biểu hiện là động kinh, tay chân không có sức, đi đứng khó khăn, nên đã nghỉ hưu sớm và về quê sống an nhàn để rèn luyện sức khỏe. Sau 10 năm kiên trì tập luyện, từ một người bị bệnh đi đứng khó khăn, nay trở thành một người rất khỏe mạnh ở cái độ tuổi 60.
Nhìn lá số ta thấy ngay cung Mệnh dính Kình Dương hãm địa, chủ trong đời ắt có một lần gặp bệnh nguy hiểm. Theo mô tả ở trên, Kình Dương có biểu hiện về động kinh, tay chân vô lực, như vậy là khá ứng với cung Mệnh của người này.
VD 2
Trước hết là về đặc điểm cơ thể: ab11 vốn có da nóng, tiêu tốn năng lượng hơn người bình thường, lúc nhỏ từng viêm gan A, từ 10 năm nay phát hiện bị nhiễm virus viêm gan B nhưng ở thể lành.
Năm 1993, cơ thể ab11 bắt đầu rơi vào trạng thái kỳ lạ. Đầu nặng như bốc hỏa, thỉnh thoảng kèm đau đầu nhưng không thể giảm đau bằng các thuốc giảm đau đầu thông thường. Thường là nặng nề nhất từ giờ trưa. Người thì mệt mỏi thường trực, chỉ muốn nằm, nhưng nằm lâu thì lại có cảm giác ê ẩm lưng ở sát trên thắt lưng. Khi đó khám Tây y thì nói là bị thiểu năng tuần hoàn não, khám Đông y thì cho là gan, thận yếu. Dù kiên trì điều trị, nhưng tình trạng này không hề thuyên giảm.
Từ khoảng 1997, đôi chân trở nên tê tê, nặng nặng, bước đi như mượn chân người khác.
Từ năm 1998, ab11 theo học thiền học dưỡng sinh, các triệu chứng nói trên giảm rõ rệt sau khi thiền vào buổi trưa, sau bữa ăn trưa. Nhưng nếu không thiền hoặc thiền lúc khác, các triệu chứng đó vẫn rất rõ rệt, có thể kéo theo đau đầu.
Trong hơn 5 năm trở lại đây, ab11 cố gắng chơi thể thao thường xuyên, giúp cơ thể mạnh mẽ và bền bỉ hơn, tinh thần năng động hơn, nhưng bệnh cũ vẫn không dứt. Trong khoảng thời gian này, ab11 cũng có nhiều đợt uống thuốc Bắc khá dài, theo đơn của bệnh viện Đông y uy tín ở Hà Nội, hoặc thầy thuốc giàu kinh nghiệm được giới thiệu. Thầy thuốc thường có chẩn đoán chung là gan nóng, thận nhược. (Sinh lý của ab11 vẫn bình thường).
---
Thất Sát + Hỏa Tinh tại mệnh thì tính nóng nảy, hay giận giữ, nên hại gan. Thêm vào đó Thất Sát chủ âm kim chủ phế, Hỏa Tinh đồng cung, Hỏa chế Kim, nên bộ phận hô hấp cũng có tiềm năng bị bệnh. Có Hỏa Tinh nên dễ bị bệnh ngoài da, da nóng, khô dát, dễ bị dị ứng với thời tiết nóng nực.
Cung Tật Ách có Thái Âm chủ thận, Thái Âm ở Dậu là nhập miếu nên là cát. Nhưng Mệnh đã báo có bệnh thì dù cung Tật cát thì vẫn sẽ có bệnh, nhưng chủ sẽ gặp được cứu giải.
Trước hết là về đặc điểm cơ thể: ab11 vốn có da nóng, tiêu tốn năng lượng hơn người bình thường, lúc nhỏ từng viêm gan A, từ 10 năm nay phát hiện bị nhiễm virus viêm gan B nhưng ở thể lành.
Năm 1993, cơ thể ab11 bắt đầu rơi vào trạng thái kỳ lạ. Đầu nặng như bốc hỏa, thỉnh thoảng kèm đau đầu nhưng không thể giảm đau bằng các thuốc giảm đau đầu thông thường. Thường là nặng nề nhất từ giờ trưa. Người thì mệt mỏi thường trực, chỉ muốn nằm, nhưng nằm lâu thì lại có cảm giác ê ẩm lưng ở sát trên thắt lưng. Khi đó khám Tây y thì nói là bị thiểu năng tuần hoàn não, khám Đông y thì cho là gan, thận yếu. Dù kiên trì điều trị, nhưng tình trạng này không hề thuyên giảm.
Từ khoảng 1997, đôi chân trở nên tê tê, nặng nặng, bước đi như mượn chân người khác.
Từ năm 1998, ab11 theo học thiền học dưỡng sinh, các triệu chứng nói trên giảm rõ rệt sau khi thiền vào buổi trưa, sau bữa ăn trưa. Nhưng nếu không thiền hoặc thiền lúc khác, các triệu chứng đó vẫn rất rõ rệt, có thể kéo theo đau đầu.
Trong hơn 5 năm trở lại đây, ab11 cố gắng chơi thể thao thường xuyên, giúp cơ thể mạnh mẽ và bền bỉ hơn, tinh thần năng động hơn, nhưng bệnh cũ vẫn không dứt. Trong khoảng thời gian này, ab11 cũng có nhiều đợt uống thuốc Bắc khá dài, theo đơn của bệnh viện Đông y uy tín ở Hà Nội, hoặc thầy thuốc giàu kinh nghiệm được giới thiệu. Thầy thuốc thường có chẩn đoán chung là gan nóng, thận nhược. (Sinh lý của ab11 vẫn bình thường).
---
Nhìn cung Mệnh, Thất Sát có Hỏa Tinh đồng cung, ta có thể kết luận ngay là kiểu gì người này cũng mang bệnh tật trong người, bởi Thất Sát là hung tinh, tính cương khắc mạnh, lại gia một trong tứ sát là Hỏa Tinh, vốn là sao đoản thọ tinh. Muốn xem bệnh gì, bao giờ phát thì cần kết hợp Mệnh, Tật và Vận.
Thất Sát + Hỏa Tinh tại mệnh thì tính nóng nảy, hay giận giữ, nên hại gan. Thêm vào đó Thất Sát chủ âm kim chủ phế, Hỏa Tinh đồng cung, Hỏa chế Kim, nên bộ phận hô hấp cũng có tiềm năng bị bệnh. Có Hỏa Tinh nên dễ bị bệnh ngoài da, da nóng, khô dát, dễ bị dị ứng với thời tiết nóng nực.
Trích dẫn
13. Thất Sát ở cung Tật Ách, tính chất cơ bản là bất lợi, khí cương khắc rất nặng. Thấy sát diệu, nhất là Kình Dương đồng độ thường chủ thuở nhỏ nhiều bệnh tật, cũng chủ tính tình nóng nảy, mà giận thì hại gan, cho nên cũng ảnh hưởng tới gan. Thất Sát thuộc âm kim, tức là phế trong Đông y, cho nên bệnh tật cũng chủ về hệ thống hô hấp, nhất là lao phổi.
Cung Tật Ách có Thái Âm chủ thận, Thái Âm ở Dậu là nhập miếu nên là cát. Nhưng Mệnh đã báo có bệnh thì dù cung Tật cát thì vẫn sẽ có bệnh, nhưng chủ sẽ gặp được cứu giải.
Trích dẫn
8. Thái Âm là âm thủy, trong Đông y là thận, đây là cơ năng căn bản của mạng sống, cũng chủ hệ thống sinh dục, cơ năng sinh dục, chủ yếu là chứng thận âm hư suy.
Bệnh phát vào năm 1993 tức năm Quý Dậu, đại tiểu hạn trùng phùng tại cung Mão có Thiên Đồng thuộc thủy hội Âm Đà Không Kiếp, nên có biểu hiện về thận, tam hợp có Khôi Đà Không Kiếp nên chủ đầu óc bốc hỏa.
Sơ qua thì là như vậy. Ta sẽ quay lại ví dụ này sau khi có thêm kiến thức.
---
Thiên Khôi, Thiên Việt: Cả đời khỏe mạnh, thêm cát tinh thì cả đời bình yên, thêm lục sát tinh thì có thể phùng hung hóa cát, bệnh tình tương đối nhẹ. Đây là hai quý tinh rất quan trọng, có tính cứu giải đối với cung Tật Ách. Không có vị trí hãm địa nên luôn luôn có tác dụng tốt.
Thiên Khôi, dương hỏa. Bệnh tật ít, có thể phùng hung hóa cát, nếu có tất gặp lương y cứu giúp. Gia cát tinh thì một đời bình an. Gia sát tinh, dễ nổi giận hại gan, xuất hiện các chứng bệnh mang tính hỏa, kinh hãi,
Thiên Việt, âm hỏa. Một đời không có bệnh gì nghiêm trọng, bệnh tật ít, nếu có tất gặp lương y cứu giúp. Gia cát tinh thì một đời bình an. Gia sát, bệnh về gan mật, tì vị không tốt, chứng thấp nhiệt, cũng chủ ám tật.
-----
Vậy thì là dấu hiệu của tạng thận rồi. Mệnh dính Thất Sát nên kiểu gì cũng mang bệnh hoặc ách trên mình.
Cung Tật Ách có Thái Dương hội Đào Diêu Hao, gia thêm Đà La nên dẫn tới cơ năng thận có vấn đề, thường có các triệu chứng như: người sợ lạnh, chân tay lạnh, chóng mặt, ù tai, sắc mặt trắng, đi ngoài phân nát ... Nhìn cung Tử Tức của em cũng dính nhiều sát tinh, càng nhấn mạnh thêm điều này, bởi cung Tử Tức là đại diện cho sinh hoạt tính dục. Đang tuổi thanh niên, nên biết giữ gìn.
Cụ thể nên nhờ bác sĩ Đông y chuẩn đoán, Tử Vi chỉ tham khảo bước đầu thôi.
Nếu không biết ai thì có thể qua Viện Y học cổ truyền trung ương, 29 Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hà Nội để thử khám.
Mệnh Thất Sát, Thân Phá Quân, nên biết giữ gìn sức khỏe chút.
Cung Tật Ách, Liêm Tham tại Tỵ, Tham Lang hóa Kị, hội Kình Đà, nhưng có Thiên Việt nằm chính cung, nên có thể phùng hung hóa cát.
Mức độ nào thì còn phải xem các cát, hung tinh còn lại phân bổ thế nào so với cung Mệnh, Thân và Tật.
----
---
Thiên Khôi, Thiên Việt: Cả đời khỏe mạnh, thêm cát tinh thì cả đời bình yên, thêm lục sát tinh thì có thể phùng hung hóa cát, bệnh tình tương đối nhẹ. Đây là hai quý tinh rất quan trọng, có tính cứu giải đối với cung Tật Ách. Không có vị trí hãm địa nên luôn luôn có tác dụng tốt.
Thiên Khôi, dương hỏa. Bệnh tật ít, có thể phùng hung hóa cát, nếu có tất gặp lương y cứu giúp. Gia cát tinh thì một đời bình an. Gia sát tinh, dễ nổi giận hại gan, xuất hiện các chứng bệnh mang tính hỏa, kinh hãi,
Thiên Việt, âm hỏa. Một đời không có bệnh gì nghiêm trọng, bệnh tật ít, nếu có tất gặp lương y cứu giúp. Gia cát tinh thì một đời bình an. Gia sát, bệnh về gan mật, tì vị không tốt, chứng thấp nhiệt, cũng chủ ám tật.
-----
Vậy thì là dấu hiệu của tạng thận rồi. Mệnh dính Thất Sát nên kiểu gì cũng mang bệnh hoặc ách trên mình.
Cung Tật Ách có Thái Dương hội Đào Diêu Hao, gia thêm Đà La nên dẫn tới cơ năng thận có vấn đề, thường có các triệu chứng như: người sợ lạnh, chân tay lạnh, chóng mặt, ù tai, sắc mặt trắng, đi ngoài phân nát ... Nhìn cung Tử Tức của em cũng dính nhiều sát tinh, càng nhấn mạnh thêm điều này, bởi cung Tử Tức là đại diện cho sinh hoạt tính dục. Đang tuổi thanh niên, nên biết giữ gìn.
Cụ thể nên nhờ bác sĩ Đông y chuẩn đoán, Tử Vi chỉ tham khảo bước đầu thôi.
Nếu không biết ai thì có thể qua Viện Y học cổ truyền trung ương, 29 Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hà Nội để thử khám.
Mệnh Thất Sát, Thân Phá Quân, nên biết giữ gìn sức khỏe chút.
Cung Tật Ách, Liêm Tham tại Tỵ, Tham Lang hóa Kị, hội Kình Đà, nhưng có Thiên Việt nằm chính cung, nên có thể phùng hung hóa cát.
Mức độ nào thì còn phải xem các cát, hung tinh còn lại phân bổ thế nào so với cung Mệnh, Thân và Tật.
----
Cung Tật Ách chủ về bệnh tật và tai ách. Nhưng liên quan đến vấn đề có tai ách xảy ra hay không, cung Tật Ách thực ra chỉ có thể dùng để tham khảo. Bởi vì khi luận đoán tai ách thường phải phối hợp thêm tổ hợp tinh hệ cung Mệnh, hơn là dùng trực tiếp tinh hệ cung Tật Ách, còn đối với việc luận đoán bệnh tật thì nên xem xét cả tinh hệ cung Mệnh lẫn tinh hệ cung Tật Ách, hai cung đều quan trong ngang nhau.
Ví dụ "Liêm Trinh, Thất Sát" thông thường chủ bệnh đường hô hấp, nếu cung Tật Ách gặp nó, đương nhiên có ý nghĩa này, nhưng nếu cung Tật Ách gặp sao ác, mà cung mệnh là "Liêm Trinh, Thất Sát" thì cũng chủ bệnh đường hô hấp.
---
Dùng Đẩu số luận đoán bệnh tật, hoàn toàn lấy nguyên lý ngũ hành âm dương Đông y làm căn cứ, cho nên rất khó luận đoán kết hợp với tên gọi các bệnh theo y học hiện đại. Dưới đây xin trình bày một số nghiên cứu của Vương Đình Chi.
Liên quan đến tri thức về nguyên lý ngũ hành sinh khắc và ngũ tạng lục phủ, xin giới thiệu như sau:
- Tâm (tim) thuộc hỏa, tiểu trường (ruột non) cũng thuộc hỏa; hỏa cũng là hệ tuần hoàn và hệ thần kinh; ở ngũ quan là lưỡi
- Can (gan) thuộc mộc, đảm (mật) cũng thuộc mộc; mộc cũng là hệ nội tiết; ở ngũ quan là mắt
- Tì (tuyến tụy, lá lách) thuộc thổ, vị (dạ dày) cũng thuộc thổ; thổ cũng là hệ tiêu hóa; ở ngũ quan là miệng
- Phế (phổi) thuộc kim, đại trường (ruột già) cũng thuộc kim; kim cũng là hệ hô hấp; ở ngũ quan là mũi
- Thận thuộc thủy, bàng quang cũng thuộc thủy; thủy cũng là hệ thống bài tiết và cơ quan sinh dục; ở ngũ quan là tai
Căn cứ vào ngũ hành sở thuộc này đương nhiên có thể biết bệnh ở đâu, như gặp Vũ Khúc ở cung Tật Ách, có sát tinh, vì Vũ Khúc thuộc âm Kim, chủ về âm kim bị tổn thương, cho nên bệnh ở phế (phổi) hoặc đại trường (ruột già); nhưng vì Kim khắc Mộc, nếu Vũ Khúc hội hợp các sao quá mạnh như Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa và các sao cát thì Kim thịnh sẽ làm tổn thương Mộc, có khả năng gan, mật, mắt sẽ mắc bệnh, do đó cũng có thể mắt vàng, viêm gan,...
Trên là lý tương khắc ngũ hành, ngoài ra còn lý tương sinh. Khi "mẹ nuông chiều quá thì con hư", như Hỏa quá thịnh, Hỏa tuy sinh Thổ, nhưng sinh thái quá thì trái lại làm Thổ bệnh, ví dụ như bệnh dạ dày.
Do đó có thể thấy, dựa vào các sao để luận đoán bệnh tật là rất khó khăn, đòi hỏi phải có một số kinh nghiệm. Nhưng có một nguyên tắc chung là: gặp các sao ở cung tật ách trước tiên phải xét về âm dương ngũ hành của nó, như kim yếu, thì trước tiên phải nghi là kim bị bênh; nếu kim mạnh thì phải nghi hành nó khắc là mộc bị bệnh ; nếu kim quá mạnh thì cũng phải nghi hành nó sinh là thủy bị bệnh.
---
Nữ mệnh mà cung Tật Ách có Hồng Loan hoặc Thiên Hỷ mà cung phụ mẫu có sát tinh, tương xung với cung Tật Ách thì phần nhiều bị băng huyết khi sinh nở, sinh khó, sinh mổ."--> cái này đúng với mẹ mình nè. Mẹ mình có Hồng loan cung Tật, cung phụ mẫu không kiếp, sát tinh nên 2 lần sinh con đều sinh khó, lần đầu còn bị băng huyết mém chết luôn.
---
Cháu xin xác nhận điều này
Cháu:
- Mệnh Liêm Sát
- Tật Cơ Âm
Lúc nhỏ cháu bị viêm phế quản, phải đi bác sĩ chích thuốc. Khi lớn, cháu đi khám sức khỏe tổng quát thì một bên phổi bị dơ do khói bụi ô nhiễm.
Một thời gian sau khi sống trong môi trường trong lành thì đã hết, Tuy vậy, những lúc cảm nặng thì luôn có đờm nghẽn đường thở.
Ví dụ "Liêm Trinh, Thất Sát" thông thường chủ bệnh đường hô hấp, nếu cung Tật Ách gặp nó, đương nhiên có ý nghĩa này, nhưng nếu cung Tật Ách gặp sao ác, mà cung mệnh là "Liêm Trinh, Thất Sát" thì cũng chủ bệnh đường hô hấp.
---
Dùng Đẩu số luận đoán bệnh tật, hoàn toàn lấy nguyên lý ngũ hành âm dương Đông y làm căn cứ, cho nên rất khó luận đoán kết hợp với tên gọi các bệnh theo y học hiện đại. Dưới đây xin trình bày một số nghiên cứu của Vương Đình Chi.
Liên quan đến tri thức về nguyên lý ngũ hành sinh khắc và ngũ tạng lục phủ, xin giới thiệu như sau:
- Tâm (tim) thuộc hỏa, tiểu trường (ruột non) cũng thuộc hỏa; hỏa cũng là hệ tuần hoàn và hệ thần kinh; ở ngũ quan là lưỡi
- Can (gan) thuộc mộc, đảm (mật) cũng thuộc mộc; mộc cũng là hệ nội tiết; ở ngũ quan là mắt
- Tì (tuyến tụy, lá lách) thuộc thổ, vị (dạ dày) cũng thuộc thổ; thổ cũng là hệ tiêu hóa; ở ngũ quan là miệng
- Phế (phổi) thuộc kim, đại trường (ruột già) cũng thuộc kim; kim cũng là hệ hô hấp; ở ngũ quan là mũi
- Thận thuộc thủy, bàng quang cũng thuộc thủy; thủy cũng là hệ thống bài tiết và cơ quan sinh dục; ở ngũ quan là tai
Căn cứ vào ngũ hành sở thuộc này đương nhiên có thể biết bệnh ở đâu, như gặp Vũ Khúc ở cung Tật Ách, có sát tinh, vì Vũ Khúc thuộc âm Kim, chủ về âm kim bị tổn thương, cho nên bệnh ở phế (phổi) hoặc đại trường (ruột già); nhưng vì Kim khắc Mộc, nếu Vũ Khúc hội hợp các sao quá mạnh như Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa và các sao cát thì Kim thịnh sẽ làm tổn thương Mộc, có khả năng gan, mật, mắt sẽ mắc bệnh, do đó cũng có thể mắt vàng, viêm gan,...
Trên là lý tương khắc ngũ hành, ngoài ra còn lý tương sinh. Khi "mẹ nuông chiều quá thì con hư", như Hỏa quá thịnh, Hỏa tuy sinh Thổ, nhưng sinh thái quá thì trái lại làm Thổ bệnh, ví dụ như bệnh dạ dày.
Do đó có thể thấy, dựa vào các sao để luận đoán bệnh tật là rất khó khăn, đòi hỏi phải có một số kinh nghiệm. Nhưng có một nguyên tắc chung là: gặp các sao ở cung tật ách trước tiên phải xét về âm dương ngũ hành của nó, như kim yếu, thì trước tiên phải nghi là kim bị bênh; nếu kim mạnh thì phải nghi hành nó khắc là mộc bị bệnh ; nếu kim quá mạnh thì cũng phải nghi hành nó sinh là thủy bị bệnh.
---
Nữ mệnh mà cung Tật Ách có Hồng Loan hoặc Thiên Hỷ mà cung phụ mẫu có sát tinh, tương xung với cung Tật Ách thì phần nhiều bị băng huyết khi sinh nở, sinh khó, sinh mổ."--> cái này đúng với mẹ mình nè. Mẹ mình có Hồng loan cung Tật, cung phụ mẫu không kiếp, sát tinh nên 2 lần sinh con đều sinh khó, lần đầu còn bị băng huyết mém chết luôn.
---
ankhoa, on 02/07/2012 - 08:49, said:
Ví dụ "Liêm Trinh, Thất Sát" thông thường chủ bệnh đường hô hấp, nếu cung Tật Ách gặp nó, đương nhiên có ý nghĩa này, nhưng nếu cung Tật Ách gặp sao ác, mà cung mệnh là "Liêm Trinh, Thất Sát" thì cũng chủ bệnh đường hô hấp.
Cháu xin xác nhận điều này
Cháu:
- Mệnh Liêm Sát
- Tật Cơ Âm
Lúc nhỏ cháu bị viêm phế quản, phải đi bác sĩ chích thuốc. Khi lớn, cháu đi khám sức khỏe tổng quát thì một bên phổi bị dơ do khói bụi ô nhiễm.
Một thời gian sau khi sống trong môi trường trong lành thì đã hết, Tuy vậy, những lúc cảm nặng thì luôn có đờm nghẽn đường thở.