Chúng tôi đương nghiên cứu về Tam hợp trong khoa Tử vi, thì được bài giải đoán kinh nghiệm này của một cụ Vô Danh. Nguyên tắc rất đặc biệt, chúng tôi xin trình bầy cẩn trọng với quý bạn đọc. Cụ Vô danh đã đáp ứng lời kêu gọi của chúng tôi cầu xin kinh nghiệm giải đoán của các cụ cao thủ Tử vi, nhân trình bầy các kinh nghiệm của cụ Thiên Lương. Chúng tôi sẽ xin có những lời nói tiếp sau bài này. Chúng tôi xin trân trọng biết ơn cụ Vô Danh và mong được hầu chuyện với Cụ.
Hầu hết các sách Tử-Vi đã phát hành và một số lớn những người biết nhiều về Tử-Vi, thường hướng dẫn những người mới nghiên cứu rằng muốn xét sự hung kiết của một cung, cần phối hợp cung đó với cung Phúc, Mệnh, Thân, Hạn, Tam Hợp, Nhị Hợp, xung chiếu, có sách và có vị cẩn thận hơn còn khuyến khích nên xem cả cung cường, cung nhược …Một tổng hợp như vậy có lúc cần phối hợp 8 cung, với một số tinh đẩu đôi khi mang tính chất trái ngược nhau, qủa đã gây bối rối không ít cho người mới nghiên cứu hoặc gây chán nản cho người muốn nghiên cứu Tử-Vi. Đó là chưa kể đến hậu quả có thể gây sự nhầm lẫn trong việc giải đóan. Thí dụ như có người nghiên cứu cung Mệnh, đã phối trí cung Tài, Quan, Di, rồi khi nghiên cứu cung Tài cho rằng chỉ cần thêm vào tổng hợp trên đặc tính của cung Điền và lọai trừ cung Di ra là đủ. Thật ra Tam Hợp không hẳn có nghĩa là phải phối hợp lại các đẩu tinh trong ba cung để luận đóan. Người xưa đã có những định luật, khi phối hợp các cung lọai trừ những đẩu tinh ít hoặc không ảnh hưởng đến lá số, những định luật này phần lớn thất truyền, có lẽ một phần do truyền thống “dấu nghề” của người Á-Đông, phần khác do chiến tranh khiến cho các sách quý của ta bị thất lạc, hậu qủa là với lối giải mơ hồ bất định đã đem lại cho người đời mối hoài nghi về Tử-Vi và thậm chí có người xếp khoa nầy vào thành phần đạo thuật. Mới đây một vị thâm cứu Tử-Vi, cụ Thiên Lương đã tiên phong khai sáng cái đạo lý Tử-vi qua cách giải đóan đại cương lá số bằng các Tam-Hợp, Thái-Tuế, Lộc-Tồn v.v…giúp cho người thích nghiên cứu, nhìn qua đã ước định được sự thành bại, hung kiết của đương số, thật bổ ích thay! Noi gương cụ, chúng tôi xin mạo muội trình bày với các bạn một ý kiến về cách thức loại trừ bớt các đẩu tinh khi xét đóan cung Tam-Hợp mà chúng tôi đã may mắn và tình cờ học được.
1-Phân định tam-hợp
Chúng ta thấy rằng, trên Thiên bàn, các cung (Tý, Sửu, Dần, Mão v.v… ) với các Hành (Kim, Mộc, Thủy,…) của chúng nằm ở vị trí cố định, thứ tự các biểu tượng liên quan đến lá số (Phụ-Mẫu, Phúc-Đức v.v… ) cũng cố định đối với cả người sinh Dương lẫn sinh Âm và vị trí các biểu tượng này trên Thiên-bàn hoàn toàn tùy thuộc vào vị trí của Mệnh. Phân định các cung và các biểu tượng của lá số thành Tam-Hợp, ta có :
a) Thân-Tý-Thìn -Tỵ-Dậu-Sửu -Hợi-Mão-Mùi -Dần-Ngọ-Tuất
Xét ngũ hành Kim, Thủy, Mộc, Hỏa, Thổ ta thấy những hành liền nhau là Sinh, những hành cách khoảng là Khắc. Vậy thì Sinh là liền nhau có tác dụng mạnh lên nhau, còn Khắc là gián đọan, có tác dụng xô đẩy và xa rời: khảo sát các hiện tượng vật lý cũng cho phép ta kết luận tương tự. Hơn nữa khoa Tử-Vi tuy được xem là một khoa học, nhưng chắc chắn căn bản dựa trên phước thiện, tu vi của kiếp người, cổ nhân đã có câu “Nhân chi sơ, tính bổn thiện” cái Khắc chỉ có do người tạo ra hoặc là từ kiếp này hay kiếp khác, và nó chẳng qua chỉ là cái “Quả” của một cái “Nhân” Sinh mà ra. Do đó chúng tôi cho rằng Sinh là nguồn gốc, là căn bản đến với mình và Khắc là phụ, xuất hiện từ cái Sinh. Vì vậy, tại ngay đây chúng tôi xin phép mở một ngoặc để trả lời khi các bạn thắc mắc cho rằng Khắc cũng có ảnh hưởng, cũng có Khắc nhập, Khắc xuất v.v… trường hợp này chỉ là khi ta đi vào chi tiết tức là xét Hành của các tinh đẩu hoặc Hành chung của một Tam-hợp như Thái-Tuế chẳng hạn, để xem chúng có chung đụng với nhau được hay không mà thôi. Đây, ta chỉ xét cái Hành nguyên thủy, mục đích tìm chiều vận hành của các cung để xem trong một Tam-Hợp, cung nào chịu ảnh hưởng cung nào, thứ tự ảnh hưởng và ảnh hưởng ra sao.
3-Trở lại đoạn a – của Phần 1
Xét hành các cung Tam-Hợp, ta thấy : -Thìn (Thổ) sinh Thân (Kim) sinh Tý (Thủy) -Tỵ (Hỏa) sinh Sửu (Thổ) sinh Dậu (Kim) -Dần (Môc) sinh Ngọ (Hỏa) sinh Tuất (Thổ) -Hợi (Thủy) sinh Mão (Mộc) khắc Mùi (Thổ)
Thứ tự trên cho phép ta kết luận, nếu Mệnh và 11 biểu tượng khác của nó nằm trong 3 Tam-Hợp đầu, các biểu tượng sẽ chịu ảnh hưởng nhau và thứ tự ảnh hưởng hay chiều tác dụng sẽ được chúng tôi trình bày ở đoạn dưới với ví dụ. Nếu các biểu tượng này lọt vào Tam hợp thứ 4, ta thấy ngay chỉ có biểu tượng nằm tại Hợi và Mão chịu ảnh hưởng nhau, còn Hợi và Mùi, Mão và Mùi đều bị gián đoạn và độc lập.
4-Chiều tác dụng
Sự Sinh-Khắc của các Hành vận chuyển theo một chiều nhất định và không có chiều ngược lại. Khi ta nói ảnh hưởng nhau, chỉ vì ta đã giải thích theo khoa học rằng “cung Sinh” thì bị hao hụt, cung “được Sinh” thì được tài bồi và trong sự hao hụt hay tài bồi này đều bao gồm cả cái tốt lẫn cái xấu, tùy theo đặc tính của từng đẩu tinh.
Tóm lại, hành thuận theo chiều sinh có tác dụng. Hành đi ngược chiều sinh ít tác dụng. Hành khắc chiều sinh không có tác dụng.
Lấy thí dụ : Tam-hợp Thân-Tý-Thìn
– Khi xét hung, kiết của cung Thân, ta chú trọng nhiều nhất đến Thìn và Thân, riêng đối với cung Tý (Thủy) được cung Thân (Kim) sinh, ta giảm cường độ các Đẩu tinh tại Thân trước khi tổng hợp với đặc tính và cường độ của đẩu tinh nơi cung Thìn chiếu nhập vào mà khỏi cần để ý đến tính chất của đẩu tinh nơi cung Tý.
– Nếu xét đến cung Thìn, ta chỉ cần giảm cường độ của đẩu tinh cư tại cung này (vì đã xuất chiếu cho Thân) không cần đếm xỉa đến tính chất của các đẩu tinh tại cung Tý và Thân (vì khắc và nghịch chiều)
– Xét đến cung Tý, chỉ để ý đến đặc tính và cường độ của đẩu tinh tại cung này và của cung Thân chiếu xuống, cung Thìn thì không kể đến.
5-Kết luận
Mệnh chỉ vận hành trên 12 cung Thiên Bàn, các bạn có thể dựa trên đặc tính sinh-khắc của 4 Tam-Hợp mà chúng tôi vừa kể để lập thành một bản vị trí tương ứng của các biểu tượng của Mệnh đối với các cung Thiên Bàn để loại bớt sự phức tạp khi cần xét một Tam-hợp.
Về cách thức giải đoán Tam-hợp như trên, chúng tôi có theo dõi một số trường hợp của người nhà trong nhiều năm nay, cũng xin nêu lên làm điển hình để các bạn nghiên cứu. Chúng tôi cũng xin nói thêm là các bạn nào thích, có thể phối kiểm chiều tác dụng Tam hợp của phương pháp này với dẫn giải ảnh hưởng nhị hợp mà cụ Thiên Lương đã nêu ra trong cuốn Tử vi nghiệm lý xuất bản gần đây. -Trường hợp 1:
Người này tuổi Mậu Dần, có Mệnh đóng tại Sửu, chiều Sinh đi từ Quan đến Mệnh đến Tài, từ Điền đến Ách đến Huynh, từ Phụ đến Nô đến Tử, từ Thê đến Phúc. Phúc gián đoạn Di, Di gián đoạn Thê. Trên thực tế, người này nhờ có chức chưởng mà được thảnh thơi, có một thời gian nghỉ giả hạn thì bị suy sụp. Tiền của không phải vì làm quan mà có, tiền của người ấy phần nhiều là do cha mẹ để lại và trúng số mà có. Các sự rắc rối và tai họa thường do chuyện nhà, đất mà nên. Tuy nhiên, khi gặp rắc rối, anh em trong nhà đều phụ giúp, gánh đỡ. Ngược lại, không bao giờ vì anh em mà gặp tai ương, và cũng không vì tai ương mà sản nghiệp bị ảnh hưởng. Bạn bè (Nô) thường đến nhà ông bà cụ và con cái của người này được nhờ bạn bè giúp đỡ. Trái lại, các cháu nội cũng không nhờ được ông bà nội và bạn bè cũng không giúp đỡ gì được, ông bà cụ, dù rằng ăn ở trong nhà. Cung Phúc-Đức của người này tốt, nhưng khi ra ngoài (Di) lại không hưởng được và khi ra ngoài chẳng làm hại mà cũng không làm lợi cho vợ con (người này có Thân cư Phúc-Đức tại Mão)
-Trường hợp 2:
Người này cũng tuổi Dần, có Mệnh đóng tại cung Mùi, cũng là người có chức Trưởng, kiếm được tiền nhờ ảnh hưởng chức vụ, nhưng Mệnh lại không được hưởng, thường bị mất cắp, hoặc bạn bè, người dưới lường gạt vì Mệnh bị gián đoạn với Tài ở Mão và Quan ở Hợi. Đối với Ách, Huynh, Điền (Thuận chiều Sinh) người này nhờ anh em gánh chịu hết tai ương, và nhờ anh em mà tậu được nhà cửa; ngược lại không bao giờ gặp rắc rối vì việc nhà cửa. Đối với Thê, Di, Phúc (Thuận chiều Sinh) thường xa nhà vì Thê có sao khắc với đương số và khi ra ngoài thường gặp qúy nhân và được giúp đỡ, hưởng phúc. Đối với Tử, Phụ, Nô (Thuận chiều Sinh) con cái người này hiện ở với ông bà nội (cha mẹ đương số) và ông bà cụ giúp đỡ cho bạn bè người này rất nhiều.
-Trường hợp 3 :
Người này tuổi Qúy Dậu, có Mệnh đóng tại Tý, hiện có quan chức và nhờ đó mà làm ra tiền của, luôn luôn lo nghĩ về tiền bạc. Nghịch chiều lại, tiền bạc không giúp cho địa vị của người này được thăng tiến và người này cũng không mấy vui thú với chức vị hiện tại của mình, lúc nào cũng nghĩ đến việc thoái vị để đổi sang nghề khác. Đối với Nô, Phụ, Tử vì ở xa nên thường nhờ bạn bè giúp đỡ cha mẹ và hiện tại ông bà cụ săn sóc các cháu nội, nhưng ngược lại bạn bè của người này thì ít vì người này mà săn sóc con cái cho ông khi ông ở xa. Đối với Phúc, Di, Thê người này càng đi ra ngoài, càng được nhiều người coi trọng, nhờ đó giúp cho vợ nhiều lợi lộc. Đối với Huynh, Điền, Ách, người này cũng nhờ anh em mà có đất đai, nhưng các rắc rối trên đường đời lại chẳng có liên hệ gì đến sản nghiệp hoặc anh em.
-Trường hợp 4:
Người này tuổi Qúy Mùi, có Mệnh đóng tại Dậu, cũng là người có chức việc, đặc biệt cung Tài Bạch rất tốt. Trên thực tế lại không được hưởng tiền của mà phải sử dụng vào việc giữ vững địa vị của mình. Đối với Ách, Bào, Điền, anh em thường gánh chịu tai họa và cũng anh em phá tán sản nghiệp. Đối với Thê, Phúc, Di, vì có cung Phúc-Đức xấu nên mỗi lần đi ra ngoài là gặp chuyện không vừa lòng. Tuy nhiên, Thê cũng không chịu ảnh hưởng của Di và Phúc, bởi vì vợ của người này luôn luôn gặp may mắn (chúng tôi cũng có nghiên cứu lá số của bà vợ và thấy cung Mệnh và cung Phúc Đức rất tốt). Đối với Nô, Tử, Phụ, con cái được bạn bè giúp đỡ và hiện giờ hai vợ chồng đi làm; con cái do ông bà ngoại nuôi giữ.
Trên đây là những trường hợp có thật, chúng tôi cũng đã phối kiểm một số khá nhiều lá số của người nhà, nhưng vì khuôn khổ của tờ báo hạn hẹp, chúng tôi xin phép được tạm ngừng dành cho các bạn thích nghiên cứu, tự phối kiểm lấy các lá số của người thân để có một ý niệm chính xác hơn trong việc luận đoán.
Chúng tôi cũng hy vọng trong tương lai gần sẽ tiếp tục nêu những kinh nghiệm của chúng tôi về sự đơn giản các thế Nhị hợp và xung chiếu để các bạn đỡ mất thời giờ và nhất là không phải nản chí khi nghiên cứu một môn lý học mà mình ưa thích.