Tác giả: Trường Giang
Toàn bộ các cung đều có khả năng VCD. Đặc biệt là khi một cung đã VCD thì cung xung chiếu luôn luôn có chính tinh, trong khi cung tam hợp với cung VCD thì có trường hợp không có chính tinh. Cụ thể:
Toàn bộ các cung đều có khả năng VCD. Đặc biệt là khi một cung đã VCD thì cung xung chiếu luôn luôn có chính tinh, trong khi cung tam hợp với cung VCD thì có trường hợp không có chính tinh. Cụ thể:
Cung Tí Ngọ, Thìn Tuất, Tỵ Hợi có một trường hợp VCD
Cung Tí Ngọ VCD có Đồng Âm xung chiếu, Cự Dương tam hợp
Cung Thìn Tuất có Cơ Lương xung chiếu, Cự Dương tam hợp
Cung Tỵ Hợi VCD có Liêm Tham xung chiếu, Phủ và Tướng tam hợp
Cung Sửu Mùi, Dần Thân, Mão Dậu có ba trường hợp VCD
Cung Sửu Mùi VCD có Đồng Cự xung chiếu, Thái Âm và Dương Lương tam hợp
Cung Sửu Mùi VCD có Nhật Nguyệt xung chiếu, Cự Cơ và Thiên Đồng tam hợp
Cung Sửu Mùi VCD có Vũ Tham xung chiếu, Phủ và Tướng tam hợp
Cung Dần Thân VCD có Đồng Lương xung chiếu, Cự Dương tam hợp
Cung Dần Thân VCD có Cơ Âm xung chiếu, Cự và Dương tam hợp
Cung Dần Thân có Cự Dương xung chiếu, Đồng Âm tam hợp
Cung Mão Dậu VCD có Dương Lương xung chiếu, Đồng Cự và Thiên Cơ tam hợp
Cung Mão Dậu VCD có Tử Tham xung chiếu, Phủ và Tướng tam hợp
Cung Mão Dậu VCD có Cự Cơ xung chiếu, Âm Dương và Thiên Lương tam hợp
Nguyên tắc luận giải về cung VCD
Một số sách vở bàn rằng khi gặp cung VCD thì ta lấy chính tinh xung chiếu làm tọa thủ để luận đoán, có nghĩa là nếu chính tinh này đắc hay hãm thì đặc tính đắc hãm của nó sẽ được tạm sử dụng để luận giải tại cung VCD . Quan điểm này thiết tưởng cũng hợp lý vì các sao xung chiếu vừa là trực chiếu, vừa có ảnh hưởng sâu rộng đến các cung khác hơn các sao tam chiếu. Ví dụ:
Mệnh VCD thì lấy chính tinh tại cung Di vì chính tinh tại Di còn có tác động đến cung Phối và cung Phúc, toàn bộ đều là cường cung đối với Mệnh (Ảnh huởng đến Mệnh bao gồm Tài Quan Di Phối Phúc)
Phụ Mẫu VCD thì lấy chính tinh tại cung Tật vì chính tinh tại cung Tật còn ảnh huởng đến cung Huynh và cung Điền (ảnh hưởng đến Phụ bao gồm Nô Tử Tật Điền Huynh)
Phúc Đức VCD thì lấy chính tinh tại cung Tài vì chính tinh tại cung Tài còn ảnh hưởng đến cung Quan và cung Mệnh (ảnh hưởng đến Phúc bao gồm Di Phối Tài Quan Mệnh)
Điền Trạch VCD thì lấy chính tinh tại cung Tử vì chính tinh tại cung Tử còn ảnh hưởng đến cung Nô và cung Phụ Mẫu (ảnh hưởng đến Điền thì bao gồm Tật Huynh Tử Nô Phụ)
Quan Lộc VCD thì lấy chính tinh tại cung Phối vì chính tinh tại cung Phối còn ảnh hưởng đến cung Di và cung Phúc (ảnh hưởng đến Quan bao gồm Mệnh Tài Phối Di Phúc)
Nô Bộc VCD thì lấy chính tinh tại cung Huynh vì chính tinh tại cung Huynh còn ảnh hưởng đến cung Tật và cung Điền)
Thiên Di VCD thì lấy chính tinh tại cung Mệnh vì chính tinh tại cung Mệnh còn ảnh hưởng đến cung Quan và cung Tài
Tài Bạch VCD thì lấy chính tinh tại cung Phúc vì chính tinh tại cung Phúc còn ảnh hưởng đến cung Phối và cung Di
Tử Tức VCD thì lấy chính tinh tại cung Điền vì chính tinh tại cung Điền còn ảnh hưởng đến cung Tật và cung Huynh
Huynh Đệ VCD thì lấy chính tinh tại cung Nô vì chính tinh tại cung Nô còn ảnh hưởng đến cung Tử Tức và cung Phụ Mẫu
Nguyên tắc lấy chính tinh xung chiếu làm tọa thủ không áp dụng cho ba trường hợp sẽ nêu dưới đây (VCD có hung tinh đắc địa độc thủ, VCD có Nhật Nguyệt xung chiếu hoặc Nhật Nguyệt sáng sủa tam hợp chiếu (Nhật Mão, Nguyệt Mùi) và VCD đắc tam không).
Ngũ hành bản mệnh và cung VCD
Thông thường thì Mệnh Hỏa và Kim thì tốt hơn các Mệnh có hành khác, bởi cung VCD ví như là nhà không có nóc, cần có hành khí mạnh mẽ là Hỏa và Kim làm nòng cốt
Cung VCD và Tuần Triệt án ngữ
Ngoại trừ trường hợp cung VCD có hung tinh đắc địa độc thủ thì không nên có Tuần Triệt án ngữ, còn tất cả các trường hợp cung VCD đều rất cần có Tuần hoặc Triệt án ngữ tại bản cung để câu hút được chính tinh về, để ngăn chặn các ảnh hưởng xấu xa do hung tinh lạc hãm đóng tại cung VCD hoặc chiếu về cung VCD. Nếu gặp Triệt tại Thân Dậu, Tuần tại Thìn Tí hoặc Dần Mão thì càng hay (Triệt đáo Kim cung, Tuần lâm Hỏa địa hoặc Mộc vị thì bất kỵ Sát Tinh bại điều tai ương sở tác). Chú ý rằng cung VCD gặp Tuần án ngữ tốt đẹp hơn cung VCD gặp Triệt, gặp Triệt cũng chỉ đưa đến sự tốt đẹp của cung VCD ở mức độ kha khá trong trường hợp có chính tinh sáng sủa xung chiếu và nhiều trung tinh sáng sủa hội chiếu. Nếu không có Tuần hoặc Triệt đóng tại cung VCD thì hiệu quả ảnh hưởng của chính tinh xung chiếu yếu đi, và cho dù cung VCD có nhiều sao sáng sủa hội chiếu cũng không thể coi là rực rỡ được, tốt lắm thì sự tốt đẹp cũng chỉ ở mức độ trung bình khá mà thôi. Khi có Tuần hoặc Triệt tại cung VCD thì mặc dầu ban đầu tuy gặp khó khăn trở ngại nhưng về sau lại thuận lợi hơn, tốt đẹp hơn. Tuần Triệt ở đây còn có tác dụng ngăn trở các sao xấu, nếu có, chiếu về cung VCD, và giải cứu được trường hợp phi yểu tác bần nếu VCD tại cung Mệnh. Trường hợp Tuần Triệt án ngữ đồng cung thì thông thuờng ta có thể giải đoán là cung VCD này không tốt cũng không xấu, tốt xấu chỉ nằm khoảng ở mức độ trung bình mà thôi. Trong trường hợp này ta gần như không cần quá chú trọng lắm đến các sao hội chiếu vì ảnh hưởng gia giảm của các sao này tuy vẫn có nhưng hầu như không nhiều vì Tuần ngăn các sao tốt chiếu tới là chủ yếu, còn Triệt thì ngăn cản các hung tinh chiếu tới trong khi các sao tại bản cung thì bị cả Tuần lẫn Triệt vây trảm. Cần chú ý có một số sao kỵ gặp Tuần Triệt như Tướng Quân nếu đóng tại cung VCD mà gặp Tuần Triệt thì dễ đưa đến tai họa bất ngờ nếu rơi vào trường hợp bị đương đầu. Đặc biệt nếu VCD tại Tứ Mộ thì lại rất cần Tuần Triệt án ngữ.
Trường hợp đặc biệt Mệnh VCD có Tuần hoặc Triệt thủ, có hai trong ba sao là Tuần, Triệt, Thiên Không chiếu thì gọi là VCD đắc tam không, nếu mệnh Hỏa hoặc Kim thì phú quí khả kỳ (được hưởng phú quí trong một giai đọan, bởi vì tính chất của các sao Không trong trường hợp này tuy đưa đến tốt đẹp nhưng không toàn vẹn, chỉ hưởng tốt đẹp trong một giai đọan mà thôi). Đắc Tam Không là Tuần Không, Triệt Không và Thiên Không. Không tính sao Địa Không. Cần một thủ, hai sao chiếu. Trong trường hợp đắc tam không này ta không lấy chính tinh xung chiếu làm tọa thủ. VCD đắc tam không mà không có Tuần Triệt án ngữ thì là cách Kiến Không. Mệnh VCD đắc tam không thì mệnh Hỏa đẹp hơn Mệnh Kim, còn các Mệnh khác thì không hưởng mấy (không giàu có nhưng nhìn chung thì cuộc sống không đến nổi xấu, cuộc sống cũng được tạm đủ hoặc kha khá). Phú có câu:
Mệnh VCD đắc Tam Không phú quí khả kỳ
Mệnh VCD hoán ngộ Tam Không hữu Song Lộc, phú quí khả kỳ
Trường hợp VCD đắc tam không, nếu có hung tinh lạc hãm hay đắc địa tọa thủ tại cung VCD thì cũng chỉ làm xấu một chút mà thôi, ta không đáng lo ngại lắm về họa của các sao này gây ra
Trường hợp vô chính diệu mà không có Tuần Triệt án ngữ, lại có sao Thiên Không thủ là cách ngộ Không, là người quyền biến khôn ngoan nhưng cuộc đời thăng trầm cực khổ. Nếu lại gặp thêm các sao Không khác ở các cung hội chiếu thì lại thông thường càng xấu hơn, cuộc đời sẽ thăng trầm cực khổ nếu không bị chết yểu.
Nhìn chung trường hợp VCD mà lấy chính tinh xung chiếu làm tọa thủ thì cho dù có được chính tinh sáng sủa xung chiếu, được Tuần Triệt án ngữ cũng chỉ đưa đến sự tốt đẹp của cung đó cũng chỉ là mức độ khá là tối đa mà thôi, chứ không thể nào rực rỡ như có chính tinh sáng sủa tọa thủ được. Còn nếu gặp chính tinh lạc hãm xung chiếu hoặc có nhiều sao xấu hội tụ mà lại không có Tuần Triệt án ngữ cứu nguy thì rơi vào cách phi yểu tác bần. Nếu có hung tinh lạc hãm khác hành bản Mệnh tọa thủ thì càng nguy hiểm hơn. Cung VCD mà có sát tinh hãm địa thủ thì rất xấu, dễ lâm vào trường hợp phi yểu tác bần (rõ nét nhất cho những người có hành bản Mệnh bị hành của hung tinh khắc) Ngọai trừ có Tuần Triệt án ngữ cứu nguy hoặc có nhiều cát tinh cứu giải như Quan Phúc, Quang Quí tọa thủ tại bản cung là tốt nhất….
VCD có hung tinh đắc địa độc thủ
Hung tinh đắc địa này phải là hành Hỏa hoặc hành Kim mới được coi là rơi vào trường hợp này. Trong trường hợp này thì ta chọn hung tinh này làm nòng cốt cho cung VCD, không lấy chính tinh xung chiếu để giải đoán. Một số tác giả cho rằng hao bại tinh đắc địa có thể làm nòng cốt cho cung VCD như Tang Môn (Mộc), Song Hao (Thủy), Khốc Hư (Thủy) nhưng theo thiển ý thì không chính xác.
Thứ tự mức độ tốt có thể sắp xếp như sau:
Bạch Hổ đắc địa tốt nhất, tại Thân Dậu tốt đẹp hơn tại Dần Mão
Kình Đà đắc địa, Kình đẹp hơn Đà
Không Kiếp đắc (Tỵ Hợi đẹp hơn Dần Thân), Hỏa Linh đắc
Đặc biệt Thái Tuế (hành Hỏa) cũng được dự phần vào trong cách này với điều kiện không gặp Tuần hoặc Triệt và phải rơi vào cung Mệnh hoặc Thân VCD
Một vài ghi nhận về vị trí của hung tinh đắc địa
Không Kiếp hành Hỏa miếu địa tại Tỵ Hợi, đắc tại Dần Thân
Hỏa Linh hành Hỏa đắc địa tại cung ban ngày từ Dần tới Ngọ
Kình Đà hành Kim đới Hỏa, đắc địa tại Thìn Tuất Sửu Mùi
Bạch Hổ hành Kim đắc địa tại Dần Mão, Thân Dậu
Hung Tinh đắc địa phải là hành Kim và Hỏa mới có tác dụng mạnh và bản Mệnh phải đồng hành với hung tinh này thì mới hưởng tốt đẹp trọn vẹn. Các Mệnh khác thì hưởng yếu hơn, ta có thể tạm đánh giá thì chỉ nằm trong mức độ trung bình. Trong tất cả các trường hợp trên thì ngoại trừ Bạch Hổ và Thái Tuế còn có tác dụng tốt lâu dài về sau, còn lại các trường hợp khác thì tuy làm cho cung VCD được sáng sủa rực rỡ nhưng chỉ là một giai đoạn mà thôi, không có tác dụng tốt lâu dài.Mọi sự xấu tốt đều đến nhanh. Không Kiếp phát huy tính chất lên bất ngờ nhanh chóng nhất nhưng cũng đưa đến suy bại nhanh nhất trong toàn bộ các hung tinh vừa kể.
Nếu Mệnh VCD có hung tinh đắc địa độc thủ nhưng bị Tuần Triệt án ngữ thì không đúng cách đã nói ở trên, trong trường hợp này ta luận giải như trường hợp lấy chính tinh xung chiếu làm tọa thủ, với Tuần Triệt án ngữ tại cung.
Cung VCD có Nhật Nguyệt xung chiếu hoặc Nhật Nguyệt sáng sủa tam hợp chiếu (Nhật Mão, Nguyệt Mùi) :
Trường hợp nếu có đủ bộ Âm Dương sáng sủa tại Mão và Mùi Hợi chiếu hoặc Âm Dương đồng cung xung chiếu đến cung VCD thì ta lại chọn bộ Âm Dương này làm nòng cốt cho cung VCD, chứ không lấy các chính tinh xung chiếu bởi vì qui luật của Nhật Nguyệt là chiếu đẹp hơn tọa thủ. Trong trường hợp nay ta có thể đoán rắng cung VCD này trước tuy có gặp trục trặc trắc trở nhưng về sau thì khá tốt. Tốt xấu hơn thì phải căn cứ vào sự tụ tập của các sao khác. Nếu có Tuần hoặc Triệt án ngữ tại cung VCD thì cung VCD này càng trở nên tốt đẹp bội phần, gặp Tuần tốt hơn gặp Triệt. Gặp Triệt thì chỉ kha khá thêm một chút mà thôi. Trường hợp Nhật Mão Nguyệt Mùi thì cần phải không bị sao nào làm giảm sức sáng, ví dụ như cần phải không có Tuần Triệt án ngữ Nhật Nguyệt, hoặc Hóa Kỵ đóng đồng cung làm giảm sức sáng của Nhật hoặc Nguyệt. Nếu một sao bị Tuần hoặc Triệt án ngữ hoặc bị Hóa Kỵ đồng cung, nghĩa là bị giảm sức sáng thi sẽ đưa đến mức độ tốt giảm đi rất nhiều, cung VCD trong trường hợp nay chỉ tốt ở mức độ trên trung bình một chút mà thôi. Nếu Nhật Nguyệt được các phụ tinh làm tăng sức sáng như Xương Khúc Đào Hồng thì lại càng tốt đẹp bội phần. Trường hợp có Nhật Nguyệt Sửu Mùi chiếu thì nếu Nhật Nguyệt bị Tuần hoặc Triệt tại cung thì càng tốt, có Hóa Kỵ đồng cung với Nhật Nguyệt thì càng tốt hơn.
Chú ý rằng chỉ rơi vào hai trường hợp này thì ta mới sử dụng bộ Nhật Nguyệt, còn tất cả các trường hợp khác thì nếu có Âm Dương chiếu ta cũng lấy chính tinh xung chiếu làm tọa thủ.
Một vài đặc trưng của cung VCD
Mệnh VCD
Nhạy bén
Có giác quan thứ sáu, linh cảm được chuyện gần xảy ra
Lúc còn nhỏ thường vất vả, lận đận, hoặc hay đau yếu, khó nuôi
Khi lớn lên, thường dễ giảm thiểu được bệnh tật, tai họa đo lường trước hoặc cảm nhận trước được sự việc sắp xảy ra
Thường hay mắc bệnh dị ứng hoặc trong đời có lần mắc bệnh dị ứng.
Rất nhạy cảm khi gần người khác phái
Dễ thích ứng được với hoàn cảnh
Không có lập trường tư tưởng vững vàng nếu không nằm trong các trường hợp đặc biệt đã nêu
Chỉ làm phụ tá thì bền, làm trưởng thì không bền, không thể đứng mũi chịu sào được, hoạt động trong bóng tối hoặc ẩn danh là hay nhất.
Cuộc sống không bền, trôi nổi, cho dù đắc cách thì thường thường phú qui cũng khả kỳ (phú quí chỉ trong một giai đoạn), hoặc đáng hưởng phú quí thì lại chết
Nếu là con trưởng thì không sống gần cha mẹ, nên làm còn nuôi họ khác, nếu gần cha mẹ thì dễ chết non hoặc nghèo (phi yểu tắc bần)
Mệnh VCD thì cần Hỏa mệnh và Kim mệnh vì mệnh VCD như nhà không nóc, cần bản mệnh có hành khí mạnh mẻ cứng cỏi làm nồng cốt. Các mệnh khác như Thổ, Thủy, Mộc mệnh chưa chắc ăn được, trường hợp đắc Tam không thì cần Hỏa hoặc Kim mệnh, có hung tinh độc thủ thì cần đồng hành là tốt nhất, có Nhật Nguyệt hội chiếu thì có thể áp dụng cho tất cả các hành bản mệnh
Thường là con vợ hai, vợ lẽ
Mệnh VCD mà cung Tử cũng VCD thì xấu, cả đời không con hoặc khổ về vấn đề con cái
Các cung dưới đây thì tùy trường hợp mà luận giải, nhưng đánh giá tốt xấu thì cơ bản cũng dựa vào cách đánh giá cung VCD đã bàn bên trên. Sự gia giảm mức độ đương nhiên cũng phải dựa trên bối cảnh Mệnh Thân Phúc Hạn và các sao khác thủ chiếu tại cung VCD… Vài nét sơ luận:
Phụ Mẫu VCD
Phải tự tay tạo lập cuộc sống, không được hưởng di sản của cha mẹ, thường phải xa cách cha mẹ, ly hương lập nghiệp
Gặp Tuần hoặc Triệt án ngữ thì phụ mẫu tốt hơn nhưng lại đưa đến dễ khắc cha hoặc mẹ, hoặc phải sớm xa cách cha mẹ, hoặc làm con nuôi người khác. Nên sớm xa gia đình, xuất ngoại thì mới có thể có công danh
Phúc VCD
Thường phải xa cách họ hàng hoặc anh em. Rất tốt, được hưởng phúc, sống lâu nếu được chính tinh sáng sủa xung chiếu và cát tinh hội họp
Rất cần gặp Tuần, không nên gặp Triệt. Gặp Tuần thì hưởng phúc, sống lâu. Gặp Triệt thì họ hàng khá giả nhưng không bền cho dù gặp nhiều sao tốt hội chiếu, thường phải ly hương lập nghiệp, xa cách họ hàng người thân
VCD đắc tam không: được hưởng phúc lộc dồi dào
Hung Tinh đắc địa độc thủ: hưởng phúc trong một giai đoạn mà thôi. Tại Dần Thân gặp Đà La độc thủ thì hưởng phúc, sống lâu
Nhật Nguyệt sáng sủa hợp chiếu: rất tốt, hưởng phúc, sống lâu, được nhờ cậy họ hàng, họ hàng quí hiển, gặp Tuần Triệt án ngữ càng tốt hơn
Điền VCD
Điền sản thường rất chậm có (sau 40) và hay thay đổi, lên xuống, không bền. Hay thay đổi chỗ ở. Không hưởng được di sản của cha mẹ để lại, tự tay phải tạo lập
Gặp Tuần Triệt án ngữ thì trước trắc trở, sau dễ dàng thuận lợi, không hưởng di sản của cha mẹ để lại. Thường hay thay đổi chỗ ở, nhà đất mua rồi lại bán, thành bại thất thường, về già mới ổn định nhưng nhà đất trung bình. Nếu Tuần Triệt án ngữ đồng cung thì cũng vậy. Đắc tam không thì điền sản tuy khá nhưng cũng không bền
Gặp Nhật Nguyệt sáng sủa hội chiếu thì trước trắc trở nhưng càng về sau càng thuận lợi, rất nhiều nhà đất về sau. Gặp Tuần Triệt án ngữ càng tốt hơn, rất giàu có, nhiều nhà đất.
Hung sát tinh độc thủ: tài sản tạo nên bất ngờ nhanh chóng, nhưng cũng suy bại nhanh, đặc biệt là Hỏa Linh Không Kiếp. Kình Đà thì tuy trướcc phá nhưng sau cùng khá giả
Quan Lộc VCD
Nghề nghiệp thường thay đổi, không bền vững, hoặc chậm có công danh, công danh thấp hoặc bình thường, hoặc không bền.
Nếu rơi vào trường hợp bình thường thì quan lộc không hiển đạt cho dù có nhiều sao sáng sủa xung chiếu hoặc hội chiếu, trường hợp không có nhiều sao sáng sủa hội chiếu thì không có công danh.
Trường hợp có Tuần Triệt án ngữ và được nhiều sao sáng sủa hội chiếu thì công danh cũng trước bị trở ngại, sau tuy khá nhưng không bền vững, thường là hoạch phát hoạch phá, bởi vì Tuần Triệt mang ý nghĩa gây trục trặc cho quan trường, Triệt gặp mạnh hơn Tuần. Tuần Triệt án ngữ đồng cũng thì công danh bình thường cho dù các yếu tố khác như Mệnh Thân Phúc Hạn… tốt
Trường hợp có hung tinh độc thủ: hoạch phát công danh nhưng không bền
Trường hợp có Nhật Nguyệt sáng sủa hội chiếu thì tuy chậm có công danh cũng tạm khá, thường hoạt động trên lãnh vực chính trị hoặc kinh tế. Chỉ có trường hợp này thì Tuần hoặc Triệt án ngữ sẽ làm tăng vẻ tốt đẹp của công danh, càng về sau công danh càng tốt tuy ban đầu có gặp trục trặc trắc trở. Cần chú ý rằng gặp Tuần thì hay hơn Triệt nhiều, gặp Triệt thì chỉ khá hơn chút đỉnh và không bền
Nô Bộc VCD
Bạn bè và người giúp việc không bền, dễ ly tán.
Gặp Tuần hoặc Triệt án ngữ thì tốt hơn, tôi tớ đắc lực hơn, trước mướn người khó khăn, sau thì dễ hơn nhưng cũng không bền
Hung sát tinh độc thủ: tôi tớ rất đắc lực nhưng thường hay lấn chủ. Bạn bè tài giỏi, thường làm ăn táo bạo, thường nằm trong giới giang hồ xã hội đen
Nhật Nguyệt sáng sủa hội chiếu: tốt đẹp, được bạn bè giúp đỡ, bạn bè khá giả, người làm có năng lực
Thiên Di VCD
Nếu rơi vào trường hợp bình thường thì không thể giàu có lớn được, cho dù có nhiều sao sáng sủa hợp chiếu
Ra ngoài dễ bị chi phối bởi môi trường, ngoại cảnh
Tuần Triệt án ngữ: tốt hơn nhưng lại dễ chết xa nhà
Hung sát tinh độc thủ: ra ngoài dễ kiếm tiền, thường kiếm được bất ngờ, nhưng lại hao hụt nhanh chóng
Nhật Nguyệt sáng sủa hội chiếu: tốt đẹp, gặp thuận lợi khi ra ngoài
Tật Ách VCD
Ít bệnh tật tai họa nhưng tai họa đến thì khó tránh khỏi
Tuần Triệt án ngữ: tốt, ít bệnh tật tai họa
Tài Bạch VCD
Tiền tại không đều đặn, lúc có lúc không, không bền vững. Nếu rơi vào trường hợp lấy chính tinh xung chiếu làm tọa thủ thì không thể giàu có lớn được, cho dù có nhiều sao sáng sủa họp chiếu
Tuần Triệt án ngữ: kiếm tiền ban đầu thường khó khăn, sau mới thuận lợi nếu được nhiều sao tốt hội chiếu nhưng cũng không thể giàu có được.
Nếu rơi vào trường hợp có hung tinh đắc địa độc thủ: hoạch phát nhưng thường hoạch phá, không bền, chỉ có một giai đoạn
Nhật Nguyệt sáng sủa hội chiếu: tốt đẹp, nhiều tiền của về hậu vận
Tử Tức VCD
Không có con, ít con, hoặc chậm con, hoặc không nhờ cậy được con, hoặc con đầu lòng sinh ra khó nuôi
Tuần Triệt án ngữ: thường chậm có con hoặc sinh con ban đầu khó nuôi nhưng con khá giả.
Hung tinh đắc địa độc thủ: con cái khá giả nhưng khó nuôi con hoặc muộn sinh con, hoặc con cái không hợp với cha mẹ
Có Nhật Nguyệt chiếu thì con khá giả, quí hiển
Phối VCD
Lập gia đỉnh thường chậm trễ, hoặc thường không có xu hướng lập gia đình mạnh mẽ, hoặc hay thay đổi đối tượng, chóng chán, không yêu ai mặn nồng, yêu cũng chỉ trong một giai đoạn. Nếu lập gia đình sớm thường dễ bị hình khắc
Gặp Tuần Triệt án ngữ: buổi đầu tuy có khó khăn trắc trở nhưng sau lại tốt hơn, nên lập gia đình trễ thì tốt hơn, sớm thì dễ không bền vững. Gặp Tuần tốt hơn gặp Triệt.
Đắc Tam không Hỏa Mệnh thì chồng vợ tốt, hoà thuận
Hung sát tinh độc thủ: cả hai tuy cương cường, đảm đang nhưng không hoà thuận, dễ hình khắc hoặc chia ly
Nhật Nguyệt sáng sủa hội chiếu: vợ chồng tốt đẹp, nhưng nếu có Nhật Nguyệt đồng cung thì vợ chồng không nhường nhịn, thường hay tìm cách lấn nhau. Gặp Tuần Triệt án ngữ thì lại bị trục trặc trắc trở ban đầu về tình duyên, lập gia đình sớm dễ đổ vỡ
Huynh Đệ VCD
Thường không ở gần anh chị em, anh em ly tán
Tuần Triệt án ngữ: tốt hơn, nhưng thường có anh chị trưởng chết sớm, thông thường anh em khá giả về hậu vận, con tiền vận thì long đong
Nhật Nguyệt sáng sủa hội chiếu: anh em thương nhau, gặp Tuần Triệt án ngữ thì càng tốt hơn.
Hạn VCD
Trường hợp lấy chính tinh xung chiếu làm tọa thủ: mọi sự đều lăng nhăng, không cảm thấy ưng ý, không thể phát trong giai đoạn này được, thường có nhiều sự thay đổi xảy ra như thay đổi về công việc, nơi ở…
Tuần Triệt án ngữ: tốt đẹp nếu chính tinh xung chiếu tốt, và thường phải gặp trắc trở trước. Không lo ngại về mọi sự xấu xa xảy ra nếu có.
Hung tinh đắc địa độc thủ: phát nhanh nhưng phá nhanh, rất hợp với Mệnh có cách Sát Phá Tham
Nhật Nguyệt sáng sủa hội chiếu: tốt đẹp nhưng có nhiều sự thay đổi xảy ra trong hạn này. Gặp Tuần Triệt án ngữ càng tốt
Hạn đắc tam không: tốt đẹp trong một giai đoạn tuy có gặp trục trặc ban đầu
Trừ Mê tín
dolphin2004 đã viết:
Chào các bác , các anh chi ,em .Cho Dolphin hỏi một điều nếu cung Phúc(cũng là cung Thân) vô chính diệu xung chiếu của nó là cung tài (Liêm Trinh/Tham Lang) đáng lẽ sao chũ thân là một trong 2 sao Liêm Tham , vậy mà lập là số của Dolphin thì sao chủ Thân lại là Thiên Tướng ( cung Phu thê tam hợp ) ...
Dolphin rất mong được giải đáp câu hỏi này
Sao chủ thân (thường gọi là sao "thân chủ") và sao chủ mệnh ("mệnh chủ") không dính líu gì đến các sao xung hợp. Hai sao này vẫn còn là một bí mật của khoa tử vi; chưa có cách xem nhất quán, vì thế gần như không bao giờ được xử dụng trong việc xem số.
VDTT
Thân chào anh thienkhoitimvui,
Mấy ngày nay cũng hơi rảnh rỗi chút đỉnh, vào tuvilyso đọc chơi một chút thì phát hiện ra trong thời gian dài vắng mặt vừa qua, trang tử vi đã xuất hiện rất nhiều khuôn mặt mới, trong đó có sự xuất hiện của anh, và anh đã đóng góp chỉnh lại một số những gì tôi đã viết, trong đó có nhiều điều rất có giá trị. Mong rằng anh khi có thời gian rảnh rỗi tiếp tục xem xét lại và cho ý kiến phê bình thẳng thắn những đúng sai hoặc thiếu sót trong đó. Mọi đánh giá của anh tôi đều hoan nghênh. Thật ra trong toàn bộ những bài đã viết, tôi đều kêu gọi sự đóng góp, nhưng ý kiến đưa ra chưa được nhiều. Một loạt bài tôi đăng trước khi tạm ngừng tham gia diễn đàn đều có những sai sót trong đó, và bản thân tôi cũng biết nhưng không thể sửa chữa được, và ắt hẳn trong đó cũng có những sai sót mà tôi không biết. Tôi nói ngay trong cả bài VCD, VCD đắc tam không trong bài tôi nêu theo quan điểm của tôi là Tuần, Triệt và Địa Không, không tính sao Thiên Không nhưng lại chưa sửa chữa, hoặc phi yểu tắc bần thì lại ghi là phi yểu tác bần, lằng nhằng thì đánh là lăng nhăng, VCD hoan ngộ Tam Không thì lại ghi là VCD hoán ngộ Tam Không, Song Hao Hỏa thì lại ghi là Thủy (bản thân tôi quan niệm Song Hao hành Hỏa), Tuần tại Tỵ Ngọ thì lại ghi là Tuần tại Thìn Tí. Riêng về Thái Tuế thì cần bổ xung một chút, ví dụ như hạn VCD có Thái Tuế cũng áp dụng....Riêng vê câu hỏi của anh về việc tôi viết "Nguyên tắc lấy chính tinh xung chiếu làm tọa thủ không áp dụng cho ba trường hợp sẽ nêu dưới đây (VCD có hung tinh đắc địa độc thủ, VCD có Nhật Nguyệt xung chiếu hoặc Nhật Nguyệt sáng sủa tam hợp chiếu (Nhật Mão, Nguyệt Mùi) và VCD đắc tam không)" thì quan điểm của tôi trong các trường hợp trên thì chính tinh tại cung xung chiếu có tác dụng như bình thường, ví dụ như VCD có Cung Sửu Mùi VCD có Đồng Cự xung chiếu, Thái Âm và Dương Lương tam hợp thì tôi không lấy chính tinh xung chiếu là Đồng Cự làm tọa thủ, và bản thân tôi cho rằng cách Nhật Nguyệt chiếu cung VCD thì cung này phải là cung Thổ thì tôi mới sử dụng Nhật Nguyệt, các trường hợp khác, ví dụ như Cung Tí Ngọ VCD có Đồng Âm xung chiếu, Cự Dương tam hợp thì tôi lấy Đồng Âm xung chiếu làm tọa thủ.Nếu anh có quan điểm gì khác thì xin đóng góp. Nhân tiện, tôi đoán là anh rành Hán Văn, thành ra xin anh chỉnh lý lại những sai sót về giải thích từ, tôi nói ví dụ như là Thiên Riêu thì anh chỉnh lại là Thiên Diêu quả là chính xác, tôi biết được điều này thông qua người bạn cũng rất rành Hán Văn nhưng đến nay chưa sửa chữa và cũng chẳng ai đóng góp. Đồng thời trong quá trình xem lại các bài viết, xin anh cho biết quan điểm của anh về một số điều thường tranh cãi, ví dụ như cách an sao, Khoa cho tuổi Canh, Khoa đi với Âm hay Đồng (tôi cho là Khoa an với Thái Âm), hoặc Kình Đà an như thế nào (thật ra thì anh đã ngầm cho biết anh an Kình Đà theo cách tiền Kình hậu Đà nhưng đối với người mới học thì chưa chắc để ý đến điều này)...., hoặc Khôi Việt an cho tuổi Canh như thế nào, các sao đắc địa tại vị trí nào (trong bài VCD thì tôi ghi là Kình Đà đắc tại Tứ Mộ, nhưng có lần tôi đọc trong phần khác của một bài nào đó cũng tôi viết thì lại ghi là Đà đắc tại Tứ Sinh mà tôi chưa sửa chữa lại ). Nói chung nhân vô thập toàn, sai sót là đương nhiên, thành ra sự đóng góp của mọi người tôi đều hoan nghênh, nhất là của anh vì thông qua một số điều anh viết thì tôi cho rằng anh rất giàu kinh nghiệm, mà ít người chịu khai thác sự hiểu biết của anh bỏ qua rất uổng phí. Tiếc rằng tôi không có nhiều thời gian để hỏi, có nhiều điều như vấn đề Hóa Khí của sao, trong trường hợp nào thì chính tinh như Cự Môn, phụ tinh như Đà La hóa khí và tác dụng của nó khác và giống với các sao nó đã hóa thành như thế nào..., vấn đề Cục hoặc vòng Tràng Sinh anh sử dụng như thế nào. Nói chung trên diễn đàn này có rất nhiều quan điểm, có khi đối chọi nhau, nhưng tôi mong rằng anh nêu lên quan điểm của mình cho mọi người nghiên cứu, học hỏi.
Thân chào anh
TMT
VDTT
Thân chào anh thienkhoitimvui,
Mấy ngày nay cũng hơi rảnh rỗi chút đỉnh, vào tuvilyso đọc chơi một chút thì phát hiện ra trong thời gian dài vắng mặt vừa qua, trang tử vi đã xuất hiện rất nhiều khuôn mặt mới, trong đó có sự xuất hiện của anh, và anh đã đóng góp chỉnh lại một số những gì tôi đã viết, trong đó có nhiều điều rất có giá trị. Mong rằng anh khi có thời gian rảnh rỗi tiếp tục xem xét lại và cho ý kiến phê bình thẳng thắn những đúng sai hoặc thiếu sót trong đó. Mọi đánh giá của anh tôi đều hoan nghênh. Thật ra trong toàn bộ những bài đã viết, tôi đều kêu gọi sự đóng góp, nhưng ý kiến đưa ra chưa được nhiều. Một loạt bài tôi đăng trước khi tạm ngừng tham gia diễn đàn đều có những sai sót trong đó, và bản thân tôi cũng biết nhưng không thể sửa chữa được, và ắt hẳn trong đó cũng có những sai sót mà tôi không biết. Tôi nói ngay trong cả bài VCD, VCD đắc tam không trong bài tôi nêu theo quan điểm của tôi là Tuần, Triệt và Địa Không, không tính sao Thiên Không nhưng lại chưa sửa chữa, hoặc phi yểu tắc bần thì lại ghi là phi yểu tác bần, lằng nhằng thì đánh là lăng nhăng, VCD hoan ngộ Tam Không thì lại ghi là VCD hoán ngộ Tam Không, Song Hao Hỏa thì lại ghi là Thủy (bản thân tôi quan niệm Song Hao hành Hỏa), Tuần tại Tỵ Ngọ thì lại ghi là Tuần tại Thìn Tí. Riêng về Thái Tuế thì cần bổ xung một chút, ví dụ như hạn VCD có Thái Tuế cũng áp dụng....Riêng vê câu hỏi của anh về việc tôi viết "Nguyên tắc lấy chính tinh xung chiếu làm tọa thủ không áp dụng cho ba trường hợp sẽ nêu dưới đây (VCD có hung tinh đắc địa độc thủ, VCD có Nhật Nguyệt xung chiếu hoặc Nhật Nguyệt sáng sủa tam hợp chiếu (Nhật Mão, Nguyệt Mùi) và VCD đắc tam không)" thì quan điểm của tôi trong các trường hợp trên thì chính tinh tại cung xung chiếu có tác dụng như bình thường, ví dụ như VCD có Cung Sửu Mùi VCD có Đồng Cự xung chiếu, Thái Âm và Dương Lương tam hợp thì tôi không lấy chính tinh xung chiếu là Đồng Cự làm tọa thủ, và bản thân tôi cho rằng cách Nhật Nguyệt chiếu cung VCD thì cung này phải là cung Thổ thì tôi mới sử dụng Nhật Nguyệt, các trường hợp khác, ví dụ như Cung Tí Ngọ VCD có Đồng Âm xung chiếu, Cự Dương tam hợp thì tôi lấy Đồng Âm xung chiếu làm tọa thủ.Nếu anh có quan điểm gì khác thì xin đóng góp. Nhân tiện, tôi đoán là anh rành Hán Văn, thành ra xin anh chỉnh lý lại những sai sót về giải thích từ, tôi nói ví dụ như là Thiên Riêu thì anh chỉnh lại là Thiên Diêu quả là chính xác, tôi biết được điều này thông qua người bạn cũng rất rành Hán Văn nhưng đến nay chưa sửa chữa và cũng chẳng ai đóng góp. Đồng thời trong quá trình xem lại các bài viết, xin anh cho biết quan điểm của anh về một số điều thường tranh cãi, ví dụ như cách an sao, Khoa cho tuổi Canh, Khoa đi với Âm hay Đồng (tôi cho là Khoa an với Thái Âm), hoặc Kình Đà an như thế nào (thật ra thì anh đã ngầm cho biết anh an Kình Đà theo cách tiền Kình hậu Đà nhưng đối với người mới học thì chưa chắc để ý đến điều này)...., hoặc Khôi Việt an cho tuổi Canh như thế nào, các sao đắc địa tại vị trí nào (trong bài VCD thì tôi ghi là Kình Đà đắc tại Tứ Mộ, nhưng có lần tôi đọc trong phần khác của một bài nào đó cũng tôi viết thì lại ghi là Đà đắc tại Tứ Sinh mà tôi chưa sửa chữa lại ). Nói chung nhân vô thập toàn, sai sót là đương nhiên, thành ra sự đóng góp của mọi người tôi đều hoan nghênh, nhất là của anh vì thông qua một số điều anh viết thì tôi cho rằng anh rất giàu kinh nghiệm, mà ít người chịu khai thác sự hiểu biết của anh bỏ qua rất uổng phí. Tiếc rằng tôi không có nhiều thời gian để hỏi, có nhiều điều như vấn đề Hóa Khí của sao, trong trường hợp nào thì chính tinh như Cự Môn, phụ tinh như Đà La hóa khí và tác dụng của nó khác và giống với các sao nó đã hóa thành như thế nào..., vấn đề Cục hoặc vòng Tràng Sinh anh sử dụng như thế nào. Nói chung trên diễn đàn này có rất nhiều quan điểm, có khi đối chọi nhau, nhưng tôi mong rằng anh nêu lên quan điểm của mình cho mọi người nghiên cứu, học hỏi.
Thân chào anh
TMT
Thân chào anh thienkhoitimvui,
Rất cám ơn anh về các vấn đề anh trả lời. Xin anh cho biết quan điểm của anh về vài vấn đề như sau:
An Tứ Hóa, anh an như thế nào cho tuổi Canh?
An Khôi Việt, anh an như thế nào cho tuổi Canh?
An Hỏa Linh anh an như thế nào?
An Lưu Hà như thế nào cho tuổi Đinh và Canh?
Anh có quan điếm như thế nào về vị trí đắc hãm hoặc vị trí xấu tốt cho các sao như Song Hao, Hóa Kỵ, Hỏa Linh, Kình Đà, Tang Hổ, Khôi Việt, Tứ Hóa, Thiên Hình, Thiên Riêu, Tả Hữu, Xương Khúc, Thai Tọa
Khi chính tinh hóa thành Khoa, Quyền, Lộc, Kỵ thì anh cho rằng trường hợp chính tinh đắc và hãm, trường hợp nào tốt hơn trường hợp nào khi hóa?
Anh có quan điểm như thế nào về sao Kiếp Sát, nhiều người cho rằng là Địa Kiếp thứ hai vì khi coi số thì tôi không coi trọng sao này.
Về vòng Trường Sinh an theo bản Mệnh, tôi mặc dù chưa đọc tài liệu nào nói đến nhưng cũng đoán rằng cổ nhân đã an khi nghiên cứu vị trí Sinh địa, Vượng Địa, Bại Địa và Tuyệt Địa của bản Mệnh. Anh sử dụng hai vòng này như thế nào khi giải đoán, sự khác nhau như thế nào giữa hai vòng....
Vài dòng gửi anh.
TMT
về các sao, tôi vốn "bảo thủ", hiện tôi vẫn theo lối Hỏa linh không xen kẽ Mão Tuất (linh tinh), Cạnh Tân Sửu Mùi (không phải Canh Tântầm Mã Hổ (Khôi Việt), tứ hóa thì tuổi Canh: Dương Khúc (vũ) Đồng Âm (L Q K Kị). Lưu Hà tôi rất ít dùng, và thấy câu "nam ngộ lưu hà tha hương tắc tử, nữ ngộ lưu hà nữ sản tắc vong" chưa chắc đúng. Hà: Dậu Tuất, Mùi Thân Tỵ Ngọ Mão Thìn Hợi Dần (cách của anh có khác chăng).
Kiếp sát chính là Đại Kiếp thứ 2 (yếu hơn nhiều), nó cặp với ThHình thành 2 gọng kìm kềm kẹp. Tính chất KSát giống nhưng nhẹ hơn ĐKiếp.
Khi có Tứ Hóa thì sao chính tinh ở đấy không hãm nữa (sao đồng cung). Nhưng hiển nhiên bị hung tinh xâm phạm không thể.
Vòng Tràng sinh bản mệnh phụ họa cho Cục thôi, thí dụ như Sinh Vượng của Cục sẽ bị chiết giảm của Tuyệt Mộ bản Mệnh.
Tktv
Thân chào anh thienkhoitimvui,
Rất cám ơn anh đã cho biết ý kiến. Về cách an các sao thì tôi trước đây đã viết trong một bài về phương pháp lập lá số tử vi, trong đó các cách tôi chọn thì ghi trước, các cách an khác biệt thi tôi phụ chú, trong đó Lưu Hà thì tôi an tuổi Canh tại Thân, và Đinh tại Thìn. Về Lưu Hà thì tôi không coi trọng câu phú trên vì thấy cần phải có thêm các điều kiện khác thì mới có khả năng xảy ra sự xấu xa như liên quan đến sinh đẻ như xảy thai, mổ hoặc chết vì sông nước (cách đây khoảng hai mươi năm tôi có coi một lá số, hiện tại lá số đó đã thất lạc, chỉ nhớ là người hỏi hỏi rằng số này có đi vượt biên trong năm nay được không, tôi trả lới rằng không. Người ta hỏi tiếp nếu đi rồi thì sao, tôi coi kỹ thì trả lời chắc là đã chết vì thấy điểm chủ yếu tôi còn nhớ là Mệnh Thiên Tướng gặp Triệt, hạn Tướng Quân gặp Tuần, đại tiểu hạn trùng phùng, có Lưu Hà xuất hiện...Nói xong thì người đó mới thú thật là số người em, đi vượt biên đã 6 tháng rồi chưa có tin tức...) Về Kiếp Sát cũng vậy, tôi thấy sự xấu xa chỉ xảy ra khi có sự hội tụ các điều khác, chứ bản thân một mình Kiếp Sát thì cũng chẳng có vấn đề gì phải lo lắng (không như Địa Kiếp). Về tuổi Canh với cách an Tứ Hóa và Khôi Việt thì tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu thêm để tránh sơ suất do điều kiện quan sát giới hạn của minh. Hỏi một người kinh nghiệm thì dễ dàng gia tăng sự quyết đoán, tôi nói ví dụ Không Kiếp theo kinh nghiệm của tôi thì giảm nhẹ xấu không những cho tuổi Tỵ Hợi, mà còn cho người sinh tháng Tỵ Hợi hoặc giờ Tỵ Hợi, và kinh nghiệm này thì cũng có người tôi quen biết nhận định như vậy. Tôi nhớ hình như đọc đâu đó thì anh cũng có đề cập đến giờ Tỵ Hợi, như vậy thì bản thân càng thấy tin tưởng vì nhiều người đều cùng có kinh nghiệm như vậy. Khi đề cập đến đề tài này thì có người không đồng ý, vì đã coi lá số có Không Kiếp và vẫn xấu như thường. Một vấn đề đặt ra là có phải lá số đó xấu do Không Kiếp hay không, hay lại xấu vì một yếu tố khác và muốn biết rõ thì phải coi lá số đó mới được. Có rất nhiều vấn đề còn mù mờ trong tử vi, ví dụ như là độ số tăng lên khi Âm Dương thuận lý, Mệnh Cục tương sinh, hiểu như thế nào, vận dụng như thế nào vì thực tế tôi thấy ví dụ như quan điểm âm dương thuận lý quả là vô lý (tôi đã chứng minh bằng một bài viết rất dài). Một người cho rằng ảnh hưởng tốt khi cung sinh sao, sao sinh Mệnh, nhưng nếu quan sát thật kỹ thì trong trường hợp này rơi vào trường hợp cung khắc Mệnh, như vậy thì đâu là điểm chủ yếu phải có? Khi nào rảnh rỗi mong anh đóng góp quan điểm của anh về các điểm chủ chốt khi coi Tử Vi (thật ra thì tôi thấy có nhiều quan điểm giống anh khi đọc các bài anh viết). Trên diễn đàn có nhiều quan điểm khác nhau (tôi nói ví dụ như cho rằng sao Hỏa mà có nhiều sao Thủy cư đồng cung thì sẽ hạn chế tác dụng của sao Hoả này vì Thủy khắc Hỏa. Trong tử vi thì rõ ràng chia ra chính tinh, trung tinh và phụ tinh với các hành của nó, hoàn toàn không đề cập đến cường độ mạnh yếu, thì liệu nhiều sao Thủy có khắc được sao Hỏa hay không, bao nhiêu thì đủ sức khắc? Ấy là chưa tính nếu có sao Thổ đồng cung thì Hỏa lại sinh Thổ, và Thổ lại khắc Thủy....Nếu không khẳng nhận được thì vận dụng ngũ hành trong Tử Vi như thế nào cho hợp lý nhất). Nhân tiện hỏi anh nhận định như thế nào về cách giáp Xương Khúc, vì khi giáp Xương Khúc thì sẽ có sự xuất hiện của một hoặc cả hai sao Không Kiếp hãm địa?
Thân chào anh
TMT
Thân chào anh thienkhoitimvui,
Vấn đề sử dụng Âm Dương ngũ hành trong Tử Vi tương đối phức tạp, vận dụng như thế nào trong giải đoán, mức độ ảnh hưởng ra sao thì muốn chứng minh cần sự tổng hợp quan sát nhiều lá số, hiện tại tôi không rảnh thành ra không thể viết ra được. Qua điểm anh viết, tôi cũng có quan điểm như anh là khi coi, cách cục tinh đẩu là quan trọng hơn các yếu tố khác, nghĩa là một lá số tốt đẹp tiên quyết phải đạt về điểm này trước. Về vấn đề sinh khắc giữa ngũ hành bản Mệnh và chính tinh thủ Mệnh, tương sinh chưa chắc là đã tốt hơn tương khắc như nhiều người đã ngộ nhận (tôi viết điều này thì chắc là có nhiều người phản đối, thành ra chưa viết, nhưng điểm này tôi biết chắc là đúng và có thể dẫn chứng bằng sự so sánh nhiều lá số khác nhau mà tôi đã có, trong đó có những lá số thể hiện rất rõ không thể nghi ngờ được). Tương sinh Mệnh Cục cũng đóng vai trò quan trọng trong việc giải đoán, nhưng âm dương thuận nghịch thì đóng vai trò thứ yếu vì cách cục tinh đẩu quan trọng hơn và vì khi coi số yếu tố đại hạn đóng vai trò quan trọng hơn (nghịch lý mà được đại hạn tốt thì hay hơn thuận lý mà gặp đại hạn xấu
Vài dòng bàn luận cùng với anh
Thân chào
TMT
Về Âm dương Ngũ Hành trogn TV, ai cũng có quan điểm riêng, tuỳ theo nhìn nhận. Nhưng tôi nghĩ không nên kết luận vội vã là nó có ảnh hưởng hay không, ko thể vì mình không dùng mà cho là nó không có. Từ khi mới học đến giờ, tôi vẫn cho CỤc chỉ đơn giản để tính đại hạn, nhưng tôi ko cho là nó không có tác dụng khác (lỡ đâu có người dùng???). CŨng bởi có quá nhiều yếu tố chi phối nhau trong TV.
Rất cám ơn anh về các vấn đề anh trả lời. Xin anh cho biết quan điểm của anh về vài vấn đề như sau:
An Tứ Hóa, anh an như thế nào cho tuổi Canh?
An Khôi Việt, anh an như thế nào cho tuổi Canh?
An Hỏa Linh anh an như thế nào?
An Lưu Hà như thế nào cho tuổi Đinh và Canh?
Anh có quan điếm như thế nào về vị trí đắc hãm hoặc vị trí xấu tốt cho các sao như Song Hao, Hóa Kỵ, Hỏa Linh, Kình Đà, Tang Hổ, Khôi Việt, Tứ Hóa, Thiên Hình, Thiên Riêu, Tả Hữu, Xương Khúc, Thai Tọa
Khi chính tinh hóa thành Khoa, Quyền, Lộc, Kỵ thì anh cho rằng trường hợp chính tinh đắc và hãm, trường hợp nào tốt hơn trường hợp nào khi hóa?
Anh có quan điểm như thế nào về sao Kiếp Sát, nhiều người cho rằng là Địa Kiếp thứ hai vì khi coi số thì tôi không coi trọng sao này.
Về vòng Trường Sinh an theo bản Mệnh, tôi mặc dù chưa đọc tài liệu nào nói đến nhưng cũng đoán rằng cổ nhân đã an khi nghiên cứu vị trí Sinh địa, Vượng Địa, Bại Địa và Tuyệt Địa của bản Mệnh. Anh sử dụng hai vòng này như thế nào khi giải đoán, sự khác nhau như thế nào giữa hai vòng....
Vài dòng gửi anh.
TMT
về các sao, tôi vốn "bảo thủ", hiện tôi vẫn theo lối Hỏa linh không xen kẽ Mão Tuất (linh tinh), Cạnh Tân Sửu Mùi (không phải Canh Tântầm Mã Hổ (Khôi Việt), tứ hóa thì tuổi Canh: Dương Khúc (vũ) Đồng Âm (L Q K Kị). Lưu Hà tôi rất ít dùng, và thấy câu "nam ngộ lưu hà tha hương tắc tử, nữ ngộ lưu hà nữ sản tắc vong" chưa chắc đúng. Hà: Dậu Tuất, Mùi Thân Tỵ Ngọ Mão Thìn Hợi Dần (cách của anh có khác chăng).
Kiếp sát chính là Đại Kiếp thứ 2 (yếu hơn nhiều), nó cặp với ThHình thành 2 gọng kìm kềm kẹp. Tính chất KSát giống nhưng nhẹ hơn ĐKiếp.
Khi có Tứ Hóa thì sao chính tinh ở đấy không hãm nữa (sao đồng cung). Nhưng hiển nhiên bị hung tinh xâm phạm không thể.
Vòng Tràng sinh bản mệnh phụ họa cho Cục thôi, thí dụ như Sinh Vượng của Cục sẽ bị chiết giảm của Tuyệt Mộ bản Mệnh.
Tktv
Thân chào anh thienkhoitimvui,
Rất cám ơn anh đã cho biết ý kiến. Về cách an các sao thì tôi trước đây đã viết trong một bài về phương pháp lập lá số tử vi, trong đó các cách tôi chọn thì ghi trước, các cách an khác biệt thi tôi phụ chú, trong đó Lưu Hà thì tôi an tuổi Canh tại Thân, và Đinh tại Thìn. Về Lưu Hà thì tôi không coi trọng câu phú trên vì thấy cần phải có thêm các điều kiện khác thì mới có khả năng xảy ra sự xấu xa như liên quan đến sinh đẻ như xảy thai, mổ hoặc chết vì sông nước (cách đây khoảng hai mươi năm tôi có coi một lá số, hiện tại lá số đó đã thất lạc, chỉ nhớ là người hỏi hỏi rằng số này có đi vượt biên trong năm nay được không, tôi trả lới rằng không. Người ta hỏi tiếp nếu đi rồi thì sao, tôi coi kỹ thì trả lời chắc là đã chết vì thấy điểm chủ yếu tôi còn nhớ là Mệnh Thiên Tướng gặp Triệt, hạn Tướng Quân gặp Tuần, đại tiểu hạn trùng phùng, có Lưu Hà xuất hiện...Nói xong thì người đó mới thú thật là số người em, đi vượt biên đã 6 tháng rồi chưa có tin tức...) Về Kiếp Sát cũng vậy, tôi thấy sự xấu xa chỉ xảy ra khi có sự hội tụ các điều khác, chứ bản thân một mình Kiếp Sát thì cũng chẳng có vấn đề gì phải lo lắng (không như Địa Kiếp). Về tuổi Canh với cách an Tứ Hóa và Khôi Việt thì tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu thêm để tránh sơ suất do điều kiện quan sát giới hạn của minh. Hỏi một người kinh nghiệm thì dễ dàng gia tăng sự quyết đoán, tôi nói ví dụ Không Kiếp theo kinh nghiệm của tôi thì giảm nhẹ xấu không những cho tuổi Tỵ Hợi, mà còn cho người sinh tháng Tỵ Hợi hoặc giờ Tỵ Hợi, và kinh nghiệm này thì cũng có người tôi quen biết nhận định như vậy. Tôi nhớ hình như đọc đâu đó thì anh cũng có đề cập đến giờ Tỵ Hợi, như vậy thì bản thân càng thấy tin tưởng vì nhiều người đều cùng có kinh nghiệm như vậy. Khi đề cập đến đề tài này thì có người không đồng ý, vì đã coi lá số có Không Kiếp và vẫn xấu như thường. Một vấn đề đặt ra là có phải lá số đó xấu do Không Kiếp hay không, hay lại xấu vì một yếu tố khác và muốn biết rõ thì phải coi lá số đó mới được. Có rất nhiều vấn đề còn mù mờ trong tử vi, ví dụ như là độ số tăng lên khi Âm Dương thuận lý, Mệnh Cục tương sinh, hiểu như thế nào, vận dụng như thế nào vì thực tế tôi thấy ví dụ như quan điểm âm dương thuận lý quả là vô lý (tôi đã chứng minh bằng một bài viết rất dài). Một người cho rằng ảnh hưởng tốt khi cung sinh sao, sao sinh Mệnh, nhưng nếu quan sát thật kỹ thì trong trường hợp này rơi vào trường hợp cung khắc Mệnh, như vậy thì đâu là điểm chủ yếu phải có? Khi nào rảnh rỗi mong anh đóng góp quan điểm của anh về các điểm chủ chốt khi coi Tử Vi (thật ra thì tôi thấy có nhiều quan điểm giống anh khi đọc các bài anh viết). Trên diễn đàn có nhiều quan điểm khác nhau (tôi nói ví dụ như cho rằng sao Hỏa mà có nhiều sao Thủy cư đồng cung thì sẽ hạn chế tác dụng của sao Hoả này vì Thủy khắc Hỏa. Trong tử vi thì rõ ràng chia ra chính tinh, trung tinh và phụ tinh với các hành của nó, hoàn toàn không đề cập đến cường độ mạnh yếu, thì liệu nhiều sao Thủy có khắc được sao Hỏa hay không, bao nhiêu thì đủ sức khắc? Ấy là chưa tính nếu có sao Thổ đồng cung thì Hỏa lại sinh Thổ, và Thổ lại khắc Thủy....Nếu không khẳng nhận được thì vận dụng ngũ hành trong Tử Vi như thế nào cho hợp lý nhất). Nhân tiện hỏi anh nhận định như thế nào về cách giáp Xương Khúc, vì khi giáp Xương Khúc thì sẽ có sự xuất hiện của một hoặc cả hai sao Không Kiếp hãm địa?
Thân chào anh
TMT
Thân chào anh thienkhoitimvui,
Vấn đề sử dụng Âm Dương ngũ hành trong Tử Vi tương đối phức tạp, vận dụng như thế nào trong giải đoán, mức độ ảnh hưởng ra sao thì muốn chứng minh cần sự tổng hợp quan sát nhiều lá số, hiện tại tôi không rảnh thành ra không thể viết ra được. Qua điểm anh viết, tôi cũng có quan điểm như anh là khi coi, cách cục tinh đẩu là quan trọng hơn các yếu tố khác, nghĩa là một lá số tốt đẹp tiên quyết phải đạt về điểm này trước. Về vấn đề sinh khắc giữa ngũ hành bản Mệnh và chính tinh thủ Mệnh, tương sinh chưa chắc là đã tốt hơn tương khắc như nhiều người đã ngộ nhận (tôi viết điều này thì chắc là có nhiều người phản đối, thành ra chưa viết, nhưng điểm này tôi biết chắc là đúng và có thể dẫn chứng bằng sự so sánh nhiều lá số khác nhau mà tôi đã có, trong đó có những lá số thể hiện rất rõ không thể nghi ngờ được). Tương sinh Mệnh Cục cũng đóng vai trò quan trọng trong việc giải đoán, nhưng âm dương thuận nghịch thì đóng vai trò thứ yếu vì cách cục tinh đẩu quan trọng hơn và vì khi coi số yếu tố đại hạn đóng vai trò quan trọng hơn (nghịch lý mà được đại hạn tốt thì hay hơn thuận lý mà gặp đại hạn xấu
Vài dòng bàn luận cùng với anh
Thân chào
TMT
Về Âm dương Ngũ Hành trogn TV, ai cũng có quan điểm riêng, tuỳ theo nhìn nhận. Nhưng tôi nghĩ không nên kết luận vội vã là nó có ảnh hưởng hay không, ko thể vì mình không dùng mà cho là nó không có. Từ khi mới học đến giờ, tôi vẫn cho CỤc chỉ đơn giản để tính đại hạn, nhưng tôi ko cho là nó không có tác dụng khác (lỡ đâu có người dùng???). CŨng bởi có quá nhiều yếu tố chi phối nhau trong TV.
CÒn về ứng dụng của Ngũ Hành, Âm Dương trong TV là có. Nếu 1 người chỉ dùng toàn sao, thậm chí chẳng biết Kim Hoả .... là gì, thậm chí không cần Tuần Triệt, hoặc cả hợp hoá, vẫn coi TV được. Đơn giản, cứ sao nào xuất hiện, đoán luôn sao đó, thì đúng 100% rồi. Ví như Cự Linh Lưu Hà thì có thể đoán là bị bỏng, nhưng tới mức nào (từ chỉ 1 vết, cho tới cấp cứu) thì không biết, cũng như Việt Linh Hình là sét đánh hay điện giật, chỉ biết là xảy ra vậy thôi. Nhưng đó chỉ là đúng việc mà nhiều vị hành nghề thày bói hay dùng, vì thân chủ tin sái cổ, nhưng lại gieo lo lắng cho người ta,vì nhiều khi xảy ra, nhưng không tới mức như mấy vị nói.
TV dùng AD NH khá nhiều, tuỳ theo sở trường hay cái học của mỗi người, nhưng cũng cần chấp nhận cái giới hạn của nó. Nó chỉ có một số ý nghĩa nhất định bởi nội dung vấn đề đã nằm sẵn trong các sao rồi. Phạm vi ứng dụng cũng như quan niệm thuộc về từng người, vì ai cũng có cái lý riêng. Như nhiều người coi Sao sinh Mệnh là hay, nhưng tôi coi Mệnh sinh sao mới hay. Nhưng chắc ai cũng biết một số cung kỵ của từng hành. Ví như Mệnh hoả kỵ cung Dậu, Thủy sợ cung Dần.... vì do sinh khắc hay tiết khí và do ảnh hưởng thực tế đã cho thấy kết quả (Mệnh - Cung). Hay như Hành sao tương khắc với Mệnh, có người còn cho là VCD (tôi thiết nghĩ vấn đề không hoàn toàn là VCD, nhưng hệ quả cũng gần tương tự như vậy) (Mệnh - Sao). Còn sao trong cung, phải coi sao nào mạnh hơn sao nào mới khắc được hay không thì nó đi quá sâu rồi, mang tính bản sắc riêng chứ không phải là cái chuẩn (TV ko có) nên dễ dẫn đến tranh luận (Chỉ ngay anh TMT cho là Mệnh - Cục quan trọng, tôi không, anh TKTV cho NH ko quan trọng....). Nhưng nó chỉ dừng ở đấy, chứ không phải sao khắc nhau loạn lên trong cung (Tướng Mộc Ấn Thổ nếu vậy chẳng bao giờ có cách Binh HÌnh Tướng Ấn cả), hoặc gán cho nó những ứng dụng ngoài phạm vi điều chỉnh của nó.
Nhưng nói cách cục quan trọng, mà không xét âm dương thì cũng thiếu sót, vì âm dương tạo cách cục, ngũ hành tạo nên vượng suy cách cục, còn bản thân cách cục đó có (dù thiếu AD NH) thì vẫn mang trong nó đủ tính chất. VD như Phủ Tướng triều viên, dù không thành cách cục, nhưng dù sao Mệnh Phủ Quan có Tướng hoặc Mệnh Tướng Tài Phủ bản thân nó đều là tốt cái đã, vì Tướng ở Quan thì công danh bằng phẳn gặp nhiều thuận lợi, Phủ ở Tài thì hợp vì Tài tinh cư Tài địa cả đời sung túc (loại trừ gặp sát tinh thì đến cả dàn sao tốt vẫn hỏng như thường).
KIỂM SOAT 007
Thân chào Ngọc Bích,
Gọi tôi là bác e rằng không phù hợp về trên cả hai vấn đề tuổi tác và tính tình. Vấn đề bạn hỏi, để viết thì cần thời gian, hẹn lúc nào rảnh rỗi thật sự thì sẽ tham gia. Nhân tiện tôi cũng xin viết vài dòng về đọc phú. Tử Vi khi giải đoán quan trọng là tổng hợp, thành ra không nên áp dụng máy móc các câu phú, chưa là việc hiểu nghĩa câu phú như thế nào cho hợp lý nữa. Ví dụ như Mệnh hảo bất như Thân hảo, Thân hảo bất như hạn hảo thì hiểu như thế nào. Nếu hiểu hạn là tiểu hạn thì có được không? hay phải là đại hạn. Trên thực tế thì rõ ràng nếu có kinh nghiệm, đại hạn mà đã tốt thì tiểu hạn có gặp sao xấu như Không Kiếp cũng chẳng hề gì, nhưng đại hạn một khi đã xấu rồi thì tiểu hạn có tốt cũng chẳng hay ho gì nhiều (coi lá số của các người bị tù tội lâu năm sẽ rõ). Thế thì những người Mệnh Thân đều tốt khi gặp hạn xấu thì thế nào, Mệnh Thân tuy xấu nhưng gặp đại hạn tốt thì ra sao? Trên thực tế chúng ta gặp nhiều hạng người thành công một thời gian chung cuộc trắng tay, nhiều người sinh ra tuổi trẻ thì hanh thông, về già thì khổ cực nhưng cũng có kẻ tuổi trẻ thì lận đận bôn ba, về già thì lại tốt đẹp, hoặc có người bình bình, cuộc sống không lên cao mà cũng chẳng xuống thấp, có người phát một thời gian rồi thôi, có người có một thời gian xui xẻo rồi lại hết... Như vậy phải chăng hiểu phú ít ra cũng cần phải có kinh nghiệm.... Về Tử Vi, có nhiều điều cần suy nghĩ, ví dụ như trong Tử Vi luận giải các cung như Phụ Mẫu, Huynh Đệ, Phúc Đức như thế nào cho hợp lý bởi vì khi quan sát lá số của các gia đình đông con, mỗi người con đều có cung Phụ Mẫu, Phúc Đức hầu như khác nhau cơ bản, mỗi anh chị em đều có cung Bào khác nhau (trên thực tế thì hiện tượng cha mẹ thương người con này, ghét người con khác, anh chị em thì hợp người này, ghét người kia, trong họ hàng kẻ giàu, người nghèo, kẻ sang người hèn... là chuyện không phải không có). Đó là chưa kể về cung Phối, không phải lá số của cặp vợ chồng đều có sự truyền tinh, đa số chúng ta gặp là lá số của người này có cung Phu Thê với chính tinh cũng đã khác biệt với cung Mệnh hoặc Thân của người kia, chưa tính đến phụ tinh. Hơn nữa, đối với cặp gia đình đã ly dị và mỗi người lập gia đình mới, con cái chung của họ thì sống hoặc với cha, hoặc với mẹ, như vậy lá số của con cái của họ luận đoán như thế nào về cung Phụ Mẫu, trong khi thời gian sống của họ thì gần gũi với cha ghẻ hoặc mẹ ghẻ hơn. Còn về bộ Âm Dương, nếu cho rằng là tượng cha mẹ, tượng vợ chồng thì áp dụng như thế nào cho hợp lý trong khi chúng ta thấy rõ là khi coi lá số gia đình đông con thì độ sáng của Âm Dương không phải lúc nào cũng trùng hợp, đồng thời đối với người lập gia đình nhiều lần thì rõ ràng là cuộc sống của họ với từng người họ sống chung đều có khác biệt. Đây là lời gợi ý cho các bạn đang nghiên cứu Tử Vi cần phải để ý. Có một điều cần nên nắm rõ là trên phương diện phối chiếu thì Mệnh Tài Quan và Phúc Di Phối, Phụ Nô Tử và Điền Tật Huynh có liên hệ với nhau qua thế xung chiếu, còn Mệnh Tài Quan Phúc Di Phối và Phụ Nô Tử Điền Tật Huynh thì ăn thông với nhau qua thế nhị hợp, điều đó có nghĩa như thế nào?
Vài dòng tản mạn
TMT
thienkhoitimvui đã viết:
như cung Tài là cường, Điền là nhược. Có người số vo tài, nhà cửa xoàng, nhưng cung Điền của họ có thể đẹp.
Nói thế, nhưng khi luận số, nếu người xem nhìn toàn diện vấn đề và cân nhắc khi dùng lời đóan thì cũng không sai ngay cả khi đóan cung nhược,
Tôi thấy có truờng hợp như một nguời, tài sản so với nhiều nguời thì cũng chỉ dạng bình thuờng, nhưng nhà đất thì rất nhiều mà lại đẹp. Tức là cung điền và cung tài chưa chắc là một. Tuy nhiên tài lại rất dễ hao hụt để chi tiêu giữ lại điền(ngoại giao phí, thuế má....).
Chuyện anh em trong nhà ko có cùng cung phụ mẫu. Tôi thấy thế này.
Quan sát gia đình nguời anh tôi. Con trai thứ thì có mệnh TPVT, có phụ mẫu là Thiên Luơng miếu: như vậy ứng với cha mẹ làm nghề bác sĩ. Con trai út, mệnh CNDL, cung phụ mẫu có Tử Tham, ứng với cha mẹ có chức quyền và có khả năng buôn bán.
Cho nên e rằng tuy có thể chính tinh khác nhau, nhưng vẫn gợi lên một ý gì đó, một khía cạnh nào đó về cha mẹ.
DO NAU
AnhSang à, mình nghĩ tam châu liên hoá chỉ tốt nếu nó nằm ở cung ban ngày, chứ viên ngọc mà đi bày giữa đêm thì đâu có ai ngắm nghía đâu. Liên châu từ Thân đến Hợi là áo gấm đi đêm, đẹp thì đẹp thật, nhưng chẳng ai biết, hihi. Hơn nữa tốt nếu ở trước mặt, chứ ở sau lưng thì cũng bị giảm đi nhiều rồi.
Flower
AnhSang đã viết:
Tất nhiên, nhưng có được nó cũng đã khó rồi chứ nói gì ban ngày với ban đêm. Đa số Tam Hoá thường bị tan tác mỗi nơi một vị.
TV dùng AD NH khá nhiều, tuỳ theo sở trường hay cái học của mỗi người, nhưng cũng cần chấp nhận cái giới hạn của nó. Nó chỉ có một số ý nghĩa nhất định bởi nội dung vấn đề đã nằm sẵn trong các sao rồi. Phạm vi ứng dụng cũng như quan niệm thuộc về từng người, vì ai cũng có cái lý riêng. Như nhiều người coi Sao sinh Mệnh là hay, nhưng tôi coi Mệnh sinh sao mới hay. Nhưng chắc ai cũng biết một số cung kỵ của từng hành. Ví như Mệnh hoả kỵ cung Dậu, Thủy sợ cung Dần.... vì do sinh khắc hay tiết khí và do ảnh hưởng thực tế đã cho thấy kết quả (Mệnh - Cung). Hay như Hành sao tương khắc với Mệnh, có người còn cho là VCD (tôi thiết nghĩ vấn đề không hoàn toàn là VCD, nhưng hệ quả cũng gần tương tự như vậy) (Mệnh - Sao). Còn sao trong cung, phải coi sao nào mạnh hơn sao nào mới khắc được hay không thì nó đi quá sâu rồi, mang tính bản sắc riêng chứ không phải là cái chuẩn (TV ko có) nên dễ dẫn đến tranh luận (Chỉ ngay anh TMT cho là Mệnh - Cục quan trọng, tôi không, anh TKTV cho NH ko quan trọng....). Nhưng nó chỉ dừng ở đấy, chứ không phải sao khắc nhau loạn lên trong cung (Tướng Mộc Ấn Thổ nếu vậy chẳng bao giờ có cách Binh HÌnh Tướng Ấn cả), hoặc gán cho nó những ứng dụng ngoài phạm vi điều chỉnh của nó.
Nhưng nói cách cục quan trọng, mà không xét âm dương thì cũng thiếu sót, vì âm dương tạo cách cục, ngũ hành tạo nên vượng suy cách cục, còn bản thân cách cục đó có (dù thiếu AD NH) thì vẫn mang trong nó đủ tính chất. VD như Phủ Tướng triều viên, dù không thành cách cục, nhưng dù sao Mệnh Phủ Quan có Tướng hoặc Mệnh Tướng Tài Phủ bản thân nó đều là tốt cái đã, vì Tướng ở Quan thì công danh bằng phẳn gặp nhiều thuận lợi, Phủ ở Tài thì hợp vì Tài tinh cư Tài địa cả đời sung túc (loại trừ gặp sát tinh thì đến cả dàn sao tốt vẫn hỏng như thường).
KIỂM SOAT 007
Thân chào Ngọc Bích,
Gọi tôi là bác e rằng không phù hợp về trên cả hai vấn đề tuổi tác và tính tình. Vấn đề bạn hỏi, để viết thì cần thời gian, hẹn lúc nào rảnh rỗi thật sự thì sẽ tham gia. Nhân tiện tôi cũng xin viết vài dòng về đọc phú. Tử Vi khi giải đoán quan trọng là tổng hợp, thành ra không nên áp dụng máy móc các câu phú, chưa là việc hiểu nghĩa câu phú như thế nào cho hợp lý nữa. Ví dụ như Mệnh hảo bất như Thân hảo, Thân hảo bất như hạn hảo thì hiểu như thế nào. Nếu hiểu hạn là tiểu hạn thì có được không? hay phải là đại hạn. Trên thực tế thì rõ ràng nếu có kinh nghiệm, đại hạn mà đã tốt thì tiểu hạn có gặp sao xấu như Không Kiếp cũng chẳng hề gì, nhưng đại hạn một khi đã xấu rồi thì tiểu hạn có tốt cũng chẳng hay ho gì nhiều (coi lá số của các người bị tù tội lâu năm sẽ rõ). Thế thì những người Mệnh Thân đều tốt khi gặp hạn xấu thì thế nào, Mệnh Thân tuy xấu nhưng gặp đại hạn tốt thì ra sao? Trên thực tế chúng ta gặp nhiều hạng người thành công một thời gian chung cuộc trắng tay, nhiều người sinh ra tuổi trẻ thì hanh thông, về già thì khổ cực nhưng cũng có kẻ tuổi trẻ thì lận đận bôn ba, về già thì lại tốt đẹp, hoặc có người bình bình, cuộc sống không lên cao mà cũng chẳng xuống thấp, có người phát một thời gian rồi thôi, có người có một thời gian xui xẻo rồi lại hết... Như vậy phải chăng hiểu phú ít ra cũng cần phải có kinh nghiệm.... Về Tử Vi, có nhiều điều cần suy nghĩ, ví dụ như trong Tử Vi luận giải các cung như Phụ Mẫu, Huynh Đệ, Phúc Đức như thế nào cho hợp lý bởi vì khi quan sát lá số của các gia đình đông con, mỗi người con đều có cung Phụ Mẫu, Phúc Đức hầu như khác nhau cơ bản, mỗi anh chị em đều có cung Bào khác nhau (trên thực tế thì hiện tượng cha mẹ thương người con này, ghét người con khác, anh chị em thì hợp người này, ghét người kia, trong họ hàng kẻ giàu, người nghèo, kẻ sang người hèn... là chuyện không phải không có). Đó là chưa kể về cung Phối, không phải lá số của cặp vợ chồng đều có sự truyền tinh, đa số chúng ta gặp là lá số của người này có cung Phu Thê với chính tinh cũng đã khác biệt với cung Mệnh hoặc Thân của người kia, chưa tính đến phụ tinh. Hơn nữa, đối với cặp gia đình đã ly dị và mỗi người lập gia đình mới, con cái chung của họ thì sống hoặc với cha, hoặc với mẹ, như vậy lá số của con cái của họ luận đoán như thế nào về cung Phụ Mẫu, trong khi thời gian sống của họ thì gần gũi với cha ghẻ hoặc mẹ ghẻ hơn. Còn về bộ Âm Dương, nếu cho rằng là tượng cha mẹ, tượng vợ chồng thì áp dụng như thế nào cho hợp lý trong khi chúng ta thấy rõ là khi coi lá số gia đình đông con thì độ sáng của Âm Dương không phải lúc nào cũng trùng hợp, đồng thời đối với người lập gia đình nhiều lần thì rõ ràng là cuộc sống của họ với từng người họ sống chung đều có khác biệt. Đây là lời gợi ý cho các bạn đang nghiên cứu Tử Vi cần phải để ý. Có một điều cần nên nắm rõ là trên phương diện phối chiếu thì Mệnh Tài Quan và Phúc Di Phối, Phụ Nô Tử và Điền Tật Huynh có liên hệ với nhau qua thế xung chiếu, còn Mệnh Tài Quan Phúc Di Phối và Phụ Nô Tử Điền Tật Huynh thì ăn thông với nhau qua thế nhị hợp, điều đó có nghĩa như thế nào?
Vài dòng tản mạn
TMT
thienkhoitimvui đã viết:
như cung Tài là cường, Điền là nhược. Có người số vo tài, nhà cửa xoàng, nhưng cung Điền của họ có thể đẹp.
Nói thế, nhưng khi luận số, nếu người xem nhìn toàn diện vấn đề và cân nhắc khi dùng lời đóan thì cũng không sai ngay cả khi đóan cung nhược,
Tôi thấy có truờng hợp như một nguời, tài sản so với nhiều nguời thì cũng chỉ dạng bình thuờng, nhưng nhà đất thì rất nhiều mà lại đẹp. Tức là cung điền và cung tài chưa chắc là một. Tuy nhiên tài lại rất dễ hao hụt để chi tiêu giữ lại điền(ngoại giao phí, thuế má....).
Chuyện anh em trong nhà ko có cùng cung phụ mẫu. Tôi thấy thế này.
Quan sát gia đình nguời anh tôi. Con trai thứ thì có mệnh TPVT, có phụ mẫu là Thiên Luơng miếu: như vậy ứng với cha mẹ làm nghề bác sĩ. Con trai út, mệnh CNDL, cung phụ mẫu có Tử Tham, ứng với cha mẹ có chức quyền và có khả năng buôn bán.
Cho nên e rằng tuy có thể chính tinh khác nhau, nhưng vẫn gợi lên một ý gì đó, một khía cạnh nào đó về cha mẹ.
DO NAU
AnhSang à, mình nghĩ tam châu liên hoá chỉ tốt nếu nó nằm ở cung ban ngày, chứ viên ngọc mà đi bày giữa đêm thì đâu có ai ngắm nghía đâu. Liên châu từ Thân đến Hợi là áo gấm đi đêm, đẹp thì đẹp thật, nhưng chẳng ai biết, hihi. Hơn nữa tốt nếu ở trước mặt, chứ ở sau lưng thì cũng bị giảm đi nhiều rồi.
Flower
AnhSang đã viết:
Tất nhiên, nhưng có được nó cũng đã khó rồi chứ nói gì ban ngày với ban đêm. Đa số Tam Hoá thường bị tan tác mỗi nơi một vị.
Theo mình hiểu thì tất cả những người tuổi Canh đều có Tam hóa liên châu . Vì vậy mình không nghĩ là có được cách này là khó lắm . Vấn đề là trong ba cung có tam Hóa, có cung Mệnh nằm trong đó không ? Và nằm ở cung ban ngày hay cung ban đêm . Ngoài ra còn phải tính đến các hung tinh khác đi cùng trong các cung đó (nếu có)