- Tên húy Ngài: Nùng Chí Cao
- Sắc phong tước hiệu: Thượng Đẳng Đại Vương.
- Đền thờ Ngài: Đền Kỳ Sầm - Cao Bằng
Đền Kỳ Sầm thờ Khau Sầm Đại Vương Nùng Trí Cao xưa ở xã Tượng Cần, huyện Thạch Lâm (nay là Bản Ngần, xã Vĩnh Quang, thành phố Cao Bằng). Đền được dựng lên để thờ danh nhân lịch sử Nùng Trí Cao - nhân vật có liên quan đến sự nghiệp mở nước thời vua Lý Thái Tông thế kỷ XI, được triều đình nhà Lý phong "Thượng đẳng thần", xuân thu nhị kỳ. Các triều đại sau đều gia phong mỹ tự.
Quan Hoàng Tám là nhân thần có công rất lớn với nước thời nhà Lý. Quan Hoàng Tám là một tướng tài đã từng dẫn quân đánh sang nhà Tống.
Theo "Đại Việt sử ký toàn thư", Nùng Trí Cao là con của Nùng Tồn Phúc - thủ lĩnh châu Thảng Do. Năm 1038, Nùng Tồn Phúc chiếm châu Vũ Lặc và Quảng Nguyên, xưng "Chiêu thánh hoàng đế", lập nước "Trường sinh", phong vợ làm "Minh đức hoàng hậu", phong con cả Trí Thông làm "Điền nha vương", đồng thời sắm sửa vũ khí, xây dựng thành trì.
Sân trước đền Kỳ Sầm |
Năm 1039, vua Lý Thái Tông thân chinh đem quân đánh Nùng Tồn Phúc, bắt Nùng Tồn Phúc và Trí Thông đem về kinh đô xử tử, Nùng Trí Cao cùng mẹ chạy đến động Lôi Hỏa, phía Tây Bắc Cao Bằng (thuộc địa phận tỉnh Quảng Tây- Trung Quốc ngày nay).
Năm 1041, hai mẹ con Nùng Trí Cao từ động Lôi Hỏa về chiếm châu Thảng Do, chiêu tập lực lượng, lập nước "Đại Lịch'" Triều đình nhà Lý cử quân lên đánh, bắt Nùng Trí Cao đem về kinh đô nhưng không trị tội mà còn cho Nùng Trí Cao giữ châu Thảng Do, đồng thời cai quản thêm các động: Lôi Hỏa, Bình, An, Bà, châu Tư Lang và được phong làm châu mục Quảng Nguyên
Gian thờ công đồng của đền Kỳ Sầm |
Năm 1043, vua Lý Thái Tông sai Ngụy Trưng đến châu Quảng Nguyên, phong cho Nùng Trí Cao tước "Thái Bảo"- một chức quan cao cấp thời Lý;
Năm 1048, Nùng Trí Cao nổi dậy ở động Vật Ác (thuộc đất Tống);
Năm 1050, Nùng Trí Cao chiếm động Vật Dương (thuộc đất Tống), lập nước "Nam Thiên", đặt niên hiệu Cảnh Thụy;
Tượng Quan Hoàng Tám |
Năm 1052, sau khi dâng biểu xin cống vua Tống không được, Nùng Trí Cao đã dẫn 5000 quân tiến đánh thành Ung Châu, sau đó xưng "Nhân hậu hoàng đế" , đổi niên hiệu là "Khải Lich", đặt quốc hiệu "Đại Nam";
Năm 1053, Địch Thanh (một viên tướng của nhà Tống) dã dẫn quân đi đánh Nùng Trí Cao, Nhà Lý sai Vũ Nhị mang quân tiếp ứng, nhưng do tình thế không cứu vãn nổi nên cuộc nổi dậy của Nùng Trí Cao chấm dứt.
Tượng thân mẫu của Quan Hoàng Tám |
Mặc dù do những hạn chế tất yếu, nhưng cuộc nổi dậy của Nùng Trí Cao đã chứng tỏ ý chí quật cường của các dân tộc thiểu số vùng biên giới chống lại các cuộc xâm lược của nhà Tống, góp phần bảo vệ biên cương phía Bắc của Tổ quốc. Hình ảnh nửa thực, nửa huyền thoại của Nùng Trí Cao đã in sâu trong tâm thức của nhiều dân tộc anh em như: Người Tày, người Nùng, Cờ Lao, La Chí... Phạm vi ảnh hưởng của Nùng Trí Cao không chỉ bó hẹp trong địa bàn tỉnh Cao Bằng, Lang Sơn, Hà Giang... mà còn ở một số nước láng giêng như: Trung Quốc, Thái Lan, Mian ma... Nùng Trí Cao được coi là biểu tượng của thánh thần, anh hùng văn hóa
Tượng 3 người vợ của Quan Hoàng Tám |
Trên địa bàn tỉnh Cao Bằng, ngoài di tích đền Kỳ Sầm, nhiều địa phương cũng có đền thờ Nùng Trí Cao như: Huyện Quảng Uyên, huyện Hà Quảng , huyện Thông Nông, huyện Bảo Lạc.
Đền Kỳ Sầm là nơi thờ chính của Quan Hoàng Tám. Khu đền khá rộng, khuôn viên khá đẹp. Khu nhà đền chỉ có 2 cung nhỏ tạo nên một sự tĩnh mịch, linh thiêng, huyền bí. Cung phía trước là cung công đồng thờ quan, quân của Ngài. Cung phí sau thờ Ngài và Thâm Mẫu cùng 3 bà vợ. Tương truyền ba bà là người Hoa, Kinh và Nùng.
Quan Hoàng Tám rất ít ngự đồng, trừ những người nặng căn của Quan.
Dưới đây là văn hầu Quan Hoàng Tám do Phạm Xuân Kiên sưu tầm:
Gương anh dũng ngàn xưa lưu để
Đất Cao Bằng tú khí chung linh
Trời nam có đức thánh linh
Họ Nùng đệ bát hùng anh tuyệt vời ./
Giận bạo chúa bao đời áp bức
Thù ngoại xâm Tống giặc cường hung
Thề rằng không độ trời chung,
Tuốt gươm quét sạch thù trong giặc ngoài./
Dư trăm trận mưa rơi sấm giật
Đôi trượng đồng dạy đất trời long
Bát Nùng nối nghiệp gia phong
Noi gương tiên tổ - họ Nùng - Trí Cao./
Ông Bát Nùng ra vào sinh tử
Trượng tung bay tuyết phủ hoa khai
Xá gì đạn lạc tên rơi
Trên đời hồ dễ mấy ai anh hào./
Thân bách chiến ra vào sinh tử
Đôi thần trùy nhẹ tựa hồng mao
Trần hoàn nhẹ gánh gian lao
Cõi trời giở sổ Nam Tào có tên./
Rước ông Bát về miền tiên giới
Đất Cao Bằng nhớ lại công ơn
Nhân dân thờ phụng khói hương
Nhớ người tráng sĩ hiên ngang anh hùng./
Thưở niên thiếu kiếm cung yên ngựa
Sinh vì đời, thác trợ muôn dân
Oai linh lẫm liệt thánh thần
Một lòng vì nước vì dân vì đời./
Gương anh khí sáng ngời muôn thuở
Chí hào hùng rạng rỡ non sông
Vinh quang thay giòng giống Lạc Hồng
Ngàn thu còn nhớ ông Bát Nùng Trí Cao ./