Luận về tính chất và ý nghĩa của 12 cung địa chi ta chỉ có thể hiểu rõ thêm một phần nào khi ngoài căn cứ căn bản về 6 trục, tức dựa vào thiên văn, dịch lý tuần hoàn thăng giáng của Âm Dương độ, vị trí cao thấp của 12 cung, cần phải có kinh nghiệm của người nghiên cứu, một loại mang tính hoàn toàn cá biệt nhưng lại tối quan trọng đối với mọi khoa chiêm nghiệm của Đông Phương.
Nguyên ủy là do nền tảng về lý quá sâu xa, đôi khi mơ hồ, mâu thuẫn, hoặc quá cô đọng do người xưa để lại nên mỗi người nhìn mỗi khác. Kinh nghiệm tức là xem nhiều, tổng hợp, xắp xếp theo một khuôn khổ nào đó về vị trí, những việc tương đồng xảy ra dù bất luận năm tháng ngày giờ sinh như thế nào đều được ghi chép, gạn đục khơi trong để hy vọng một giải đáp mang tính mẫu số chung, từ đó mới hiểu rõ những sai biệt một cách đúng đắn, tuy sai biệt mà vẫn ẩn tàng và không ngoài cái tương đồng, cái thống nhất, có thế mới gọi là định mệnh.
Vị trí ta có thể tin tưởng để khảo sát là vị trí cung Mệnh.
Vì khoa Tử Vi tuy diễn tả sinh mệnh con người qua sự tổng hợp 12 cung như thập nhị nhân duyên, nhưng các cung khác sở dĩ mỗi cung đều có vị trí cùng nội dung riêng đều xuất phát từ vị trí cung mệnh. Cung Mệnh là cung đầu tiên trong sự thiết lập cho toàn lá số.
Trong 12 cung vị trí cao thấp giữa các cung được định bằng trục Tý Ngọ, trục Bắc Nam phân chia Âm Dương mà người xưa diễn tả bằng câu Thiên Khai Ư Tý với một hào dương xuất hiện trong quẻ Phục làm biểu tượng cho cung Tý.
Tuần tự nhi tiến theo chiều kim đồng hồ đến cung Hợi ta được quẻ Thuần Khôn. Vậy hai cung Tý Hợi chính là các cung Đáy, cung thấp nhất trong 12 cung địa chị Trục Tý Ngọ tuy phân định âm dương, nhưng cái chính của sự phân định này nhằm diễn tả sự thăng giáng của âm dương bằng các hào về mặt Lý.
Tuần tự nhi tiến theo chiều kim đồng hồ đến cung Hợi ta được quẻ Thuần Khôn. Vậy hai cung Tý Hợi chính là các cung Đáy, cung thấp nhất trong 12 cung địa chị Trục Tý Ngọ tuy phân định âm dương, nhưng cái chính của sự phân định này nhằm diễn tả sự thăng giáng của âm dương bằng các hào về mặt Lý.
Đi vào thực tế, cung Tý tuy là cung thấp nhất, thuộc nghi âm, đáng lý nó phải là nơi lạnh nhất, nơi của tháng Tý trong một năm, nhưng thực tế cho thấy tháng lạnh nhất phải là tháng Sửu thuộc Tiết Đại Hàn nhằm ngày 21 tháng giêng dương lịch, và ngược lại tháng nóng nhất phải là tháng Mùi thuộc tiết Đại Thử nhằm ngày 23 tháng 7 dương lịch.
Như vậy trục Sửu Mùi là biến tướng của trục Tý Ngọ nhằm xác định sự phân chia quân bình về nóng lạnh, tức về thời tiết. Đã là thời tiết thì sự chuyển đổi giữa các mùa thường âm thầm, chậm chạp mà bền bỉ và rõ rệt (tạm thời ta bỏ qua các trường hợp đột biến về tháng nhuận, các đột biến do con người gây ra những thiên tai như hiệu ứng nhà kính, tầng ozone).
Từ đó ta có thể hiểu tại sao cách bất hiển công danh, hoặc sau 30 năm mới thành công của cách Âm Dương đồng cung, cách Vũ Tham đồng cung, cách Liêm Sát đồng cung, cách giáp Tham Vũ, giáp Liêm Sát là các cách chủ sự chậm chạp chỉ có khi Mệnh đóng tại trục Sửu Mùị Đối ảnh của trục này là trục Thìn Tuất cũng mang nghĩa tương tự.
Sự thăng giáng tuần tự của các hào âm và dương đi đến trục Dần Thân với 3 hào dương quân bình với 3 hào âm được quẻ Thái tại cung Dần (tam dương khai thái) và quẻ Bỉ tại cung Thân, tức trục Dần Thân là trục quân bình tốt nhất về âm dương (trục nào cũng có một cách quân bình âm dương dù có chệnh lệch giữa các hào âm và dương). Chính vì đây là nơi lý tưởng của sự quân bình âm dương nên nó là nơi xuất phát cho cục của mệnh và an chính tinh.
Trục thẳng góc với trục Dần Thân là trục Tỵ Hợị Trục Tỵ Hợi cũng là trục quân bình âm dương, nhưng sự quân bình trong thế nghiêng lệch tuyệt đối với 2 quẻ Thuần Càn và Thuần Khôn. Sự quân bình này ví như một người đi trên một sợi dây căng thẳng trong đám xiếc, cho nên chỉ một cơ hội nhỏ nhoi, hoặc một sơ xuất bất kỳ (niệm khởi) ta có thể vươn nhanh ở dạng phát dã như lôi, hoặc bị nhận chìm vĩnh viễn và té nhào (sinh địa của Không Kiếp). Do tính chất này nên hầu hết các chính tinh đều hãm địa, và mệnh đóng ở đây đều là cách giang hồ lãng tử, hay gặp trở lực và còn được lý giải thêm khi so kè với các cung khác.
Trục Mão Dậu thẳng góc với trục Tý Ngọ, là trục phân chia âm dương bằng các mùa, Xuân Hạ từ Mão tới Thân, Thu Đông từ Dậu tới Dần.
Tháng Mão với quẻ Lôi Thiên Đại Tráng, sấm mùa xuân bắt đầu vang, sức sống của vạn vật mới mạnh, làm thức ngủ động vật, sự sống thực sự hiện diện chứ không còn ngủ vùi, cái ăn và tính gia đình, cộng đồng bắt đầu đem đến sự ràng buộc trong mọi sinh hoạt, nên phải chăng với ý này ngưòi xưa cho cung Mão là cung của Đông Trù Táo Quân?
Từ những dò tìm mang tính sơ lược trước các bí ẩn của các cung do tính chất của các trục, dựa vào các trục để chiêm nghiệm, nay ta thử dùng vị trí cung Mệnh ứng vào từng loại cung để thử tìm cái tổng quát tính chất của từng cung, xem có được một chút ánh sáng nào về vận mệnh cố hữu ẩn tàng trong từng cung hay không ?
Trước tiên cần phải nhận định việc đi tìm tính chất cùng ý nghĩa tổng quát của từng cung đều dựa vào tính chất của các trục mà không dựa vào ngũ hành của cung vì lối an 14 chính tinh rõ ràng có sự liên kết, khóa ngàm giữa các sao bằng trục chứ không phải ngũ hành với 2 chòm sao Tử Phủ lấy trục Dần Thân làm căn cứ.
Trường hợp Mệnh tại Tý. Đây là cung đáy cho nên cách này luôn cần phải có chính tinh tốt hợp hành Mệnh, cần nhiều trung tinh, tam hóa mới thành công. Do một hào dương đầu tiên xuất hiện tại đây nên là mẫu người mang tính cải cách, sáng tạo, tay trắng làm nên, hoặc quan niệm sống cùng đời sống thay đổi hoàn toàn với quá khứ, hành xử đôi khi mang tính táo bạo, nhiều tính tranh đấu, ít mang tính van lơn xin xỏ, giữ lập trường.
Muốn được như vậy thì chính bản thân phải có những xảo thuật đặc biệt, khác người, dám nói dám làm. Chính vì vậy tại sao Quan Lộc ở Thìn luôn luôn cần Kình Dương, các sát tinh để làm lưỡi dao bén xé toang La Võng, một nhát lao vào cứu cánh một cách dứt khoát, hoặc là người có nghề hoặc ưa thích những gì tinh xảo, chế biến tài tình, nghệ thuật cao tay với cách Cơ Lương đồng cung.
Do cung Điền tại Mão là cung của Đông Trù Táo Quân, chẳng những chủ về bếp núc theo nghĩa hẹp, nó còn chủ cái gia cang của gia đình, gia tộc, lớn hơn nữa là nhân loại theo nghĩa rộng, nên cách này thường là những lý thuyết gia, những nhà cách mạng, lãnh tụ tôn giáo, đại diện cho một trường pháị Mộng cao thì té cũng cao nên đời thường vương lụy vào pháp luật, sự ghen ghét, có thương tích, tàn tật, bệnh khó chữa, dễ gặp nguy khốn do quan niệm cứng ngắt của mình, phái nữ thì duyên nợ lận đận.
Do cung Điền tại Mão là cung của Đông Trù Táo Quân, chẳng những chủ về bếp núc theo nghĩa hẹp, nó còn chủ cái gia cang của gia đình, gia tộc, lớn hơn nữa là nhân loại theo nghĩa rộng, nên cách này thường là những lý thuyết gia, những nhà cách mạng, lãnh tụ tôn giáo, đại diện cho một trường pháị Mộng cao thì té cũng cao nên đời thường vương lụy vào pháp luật, sự ghen ghét, có thương tích, tàn tật, bệnh khó chữa, dễ gặp nguy khốn do quan niệm cứng ngắt của mình, phái nữ thì duyên nợ lận đận.
Với cung Phúc ở Dần là nơi quân bình Âm Dương lý tưởng nên sự may mắn về gia thế, âm phần là đương nhiên, nhưng cũng chính vì vậy trong lòng luôn ôm mang giấc mộng lớn, luôn CẦU TOÀN trong công việc cũng như tình cảm. Vì Thiên Di tại Ngọ là nơi của Đế Tinh ngồi nên hay đi xa thì thành công, ngoại giao thì tốt lành.
Cần lưu ý sự chiêm nghiệm này chỉ ở mức độ có các sao tốt, bình thường, nếu có nhiều sao xấu ở các vị trí nói trên ta cần phải luận đoán ngược lại, nhưng phần đại thể vẫn lấy từ đây làm căn cứ.
Đối nghịch với cung Tý là cung Ngo.. Cung này là nơi cao nhất, nơi ngồi của đế tinh, triều đình, nội các nên trong cách hành xử ưa chuyện cao sang, quyền quý, chỉ đi khi gặp người đáng gặp, chuyện đáng cần. Đây là cách được Trời phú cho sinh ra đã được thế hơn người, thông minh, tài trí, phước lộc đầy đủ, nếu không như vậy thì chỉ gian nan trong một thời gian ngắn cũng có cơ hội gặp người tiến dẫn hoặc có cơ hội giữ được địa vị tốt. Vì là nội các nên tử huyệt của cách này là cung quan tại Tuất.
Do đó đây là mẫu người làm được việc lớn, luôn có phong thái "người lớn, kẻ cả" đôi khi kiêu kỳ, nặng bề ngoàị Nên nếu gặp Tuần, Triệt, các sao không hợp cách ở Mệnh hay Quan thì chỉ là hư danh, chính khách salon, hoặc những chức vụ hữu danh vô thực. Cuộc sống tha hương, vô định chẳng có thực lực, mượn oai hùm, tốt hay xấu lúc này đều phải dựa vào cung Nô Bộc, Huynh Đệ ở Tỵ Hợi của trục Tỵ Hợi.
Cung Tử Tức tại Mão là cung Táo Quân nên nặng lo người nối dõi, hoặc đào luyện đệ tử theo ý hướng, truyền thống, trường phái của mình, tức có tính bảo thủ. Các cung Phúc Đức, Điền cũng tương tự như trường hợp tại Tý.
Trường hợp cung Sửu thuộc trục Sửu Mùi, đây là chủ sự chậm chạp như đã được nói ở trên. Nếu đem so với các cung khác ta lại càng thấy ý nghĩa này càng rõ rệt.
Mệnh ở Sửu thì Nô ở Ngọ là nơi ngồi của Đế tinh và cũng là cung lục hại của cung Sửụ Trường hợp này cho thấy phần lớn Mệnh ở đây thường cô độc, lụy vào bè bạn, tốt hay xấu đều tùy thuộc vào cung Nộ Huống chi cung Quan tại Tỵ thuộc trục Tỵ Hợi là trục có độ nghiêng tuyệt đối giữa các hào Âm Dương, lại gặp phải cung Ngọ chắn ngang đường đi, muốn tiến thì phải vượt qua nơi ngồi của Đế Tinh với nhiều công sức. Cho nên đường công danh hay gặp trở lực, hay thay đổi, dù vẫn có nghị lực, đôi khi liều lĩnh, nhiều sáng tạo, đời sống dù lang bạt nhưng vẫn chung sống với đồng hương, sống cùng với gia đình bên mình hay người hôn phối, công việc chức vụ đều có liên quan đến thân tộc tiến dẫn hay giúp đỡ qua lại (cung Phúc tại Mão, cung Táo Quân). Càng có nhiều sao tốt hậu vận càng thành công, tình gia tộc, bè bạn, cộng đồng tốt đẹp. Bằng trái lại số phận coi như bị đè nén, không có cơ hội thi thố, làm cũng ham mà vui cũng thích, hữu danh vô thực, chóng chán, bi quan, hoàn cảnh bên ngoài, người ngoài làm chủ thân mình khiến hay bị lụy thân, phong trần phiêu bạt, nghèo khó, mẫu người của lý thuyết, nghiên cứu, trong phòng thí nghiệm, tàng kinh các.
Trường hợp cung Mùi thì lại khác, do cung này nhị hợp với cung của Đế Tinh nên đây là cách cố vấn, quân sư, cách làm thầy người, người tính khách khí, biện tài, mô phạm, sống chuẩn mực, lý trí mạnh hơn tình cảm, chịu khó, khởi đầu thường vất vả, ước mộng ban đầu về tình cảm, nghề nghiệp hay bị đứt đoạn do tính chất của trục Sửu Mùị Nếu thời trẻ tuổi sớm thành công hoặc muốn tiến nhanh thì lại dễ bị hỏng, thất bại nhanh chóng.
Điểm kế tiếp là cung Quan tại Hợi là cung đáy cho nên muốn thành công phải có nghị lực, tài năng phi thường để vươn lên, đương đầu và kiên gan với những việc khó ai làm nổị
Cung Phúc tại Dậu là cung Thiên Di thứ hai nên tha phương, hay lo hết chuyện này sang chuyện kia, không bao giờ để nước đến chân mới nhẩy, dễ đoản thọ hoặc hay có thương tích vĩnh viễn, bệnh khó chữạ
Điểm kế tiếp là cung Quan tại Hợi là cung đáy cho nên muốn thành công phải có nghị lực, tài năng phi thường để vươn lên, đương đầu và kiên gan với những việc khó ai làm nổị
Cung Phúc tại Dậu là cung Thiên Di thứ hai nên tha phương, hay lo hết chuyện này sang chuyện kia, không bao giờ để nước đến chân mới nhẩy, dễ đoản thọ hoặc hay có thương tích vĩnh viễn, bệnh khó chữạ
Trường hợp cung Dần. Do cung này thuộc trục Dần Thân là trục quân bình âm Dương lý tưởng nhất và do cung Quan là cung Ngọ Đế Tinh nên vận mệnh thường chiều lòng người, dễ gặp cơ hội tốt, có sự nghiệp tốt đẹp, tài giỏi, vượng phu ích tử, có nghề tay trái đặc biệt hỗ trợ cho công danh,tình cảm. Hai cung Dần Ngọ dù có gặp sao xấu cũng không đáng lo ngại, cũng có lúc vươn lên hoặc xã hội cũng có cơ hội xắp xếp cho mình một vị trí yên ổn, nhất là cung Phu Thê ở Tý là cung đáy nơi xuất hiện hào dương đầu tiên sẽ giúp đỡ và nâng đỡ cho mình, nói khác đi cung này là nơi thoái thân của mình để trú ẩn.
Đáng ngại nhất là cung Nô ở Mùi nhị hợp với cung Ngọ, nếu gặp sao xấu thì lại vất vả, khó gặp cơ hội hoặc người cứu vãn, suốt đời khó làm nên việc.
Đáng ngại nhất là cung Nô ở Mùi nhị hợp với cung Ngọ, nếu gặp sao xấu thì lại vất vả, khó gặp cơ hội hoặc người cứu vãn, suốt đời khó làm nên việc.
Trường hợp cung Thân. Tuy do cung này thuộc trục Dần Thân là trục quân bình âm Dương lý tưởng nhất nhưng cung Quan tại Tý là cung đáy dễ bị suy sụp khi gặp khó khăn, khó vươn lên, cần phải có chí bền. Do đó đây là mẫu người hăng say, suốt đời tranh đấu, tính toán, thích hợp các ngành kinh doanh, thương gia, kỹ nghệ gia, tay trắng làm nên. Nếu có xuất thân từ giàu có, danh giá thì đến đời mình cũng không còn được bao nhiêu, nhưng vẫn có thừa hưởng chút ít về gia tài hoặc nghề nghiệp, thời trẻ đã phải tha hương tự mình gầy dựng lạị
Đây là kết quả của cung Phụ Mẫu ở Dậu, cung Điền ở cung Hợi là cung đáy, nơi phát sinh bộ Không Kiếp.
Cung Đế Tinh tại Ngọ là cung Phu Thê rất quan trọng cho nữ hơn nam, có người hôn phối danh giá. Nhưng nếu có sao xấu và không hợp cách thường là người lận đận tình duyên, đảm đang mà hạnh phúc lợt lạt, nhiều mối lương duyên chật vật, ngang trái, hoặc sống cô độc. Nam thì đa thê nếu cung Tý gặp Tuần Triệt.
Đây là kết quả của cung Phụ Mẫu ở Dậu, cung Điền ở cung Hợi là cung đáy, nơi phát sinh bộ Không Kiếp.
Cung Đế Tinh tại Ngọ là cung Phu Thê rất quan trọng cho nữ hơn nam, có người hôn phối danh giá. Nhưng nếu có sao xấu và không hợp cách thường là người lận đận tình duyên, đảm đang mà hạnh phúc lợt lạt, nhiều mối lương duyên chật vật, ngang trái, hoặc sống cô độc. Nam thì đa thê nếu cung Tý gặp Tuần Triệt.
Trường hợp cung Mão : Do đây là cung Táo Quân chủ cái gia cang của gia đình, thân tộc nên làm gì cũng có dính líu đến người thân, đồng hương, bằng hữu, ưa thích tham gia vào những hiệp hội mang tính cộng đồng về xứ xở, ngành nghề, tôn giáo, có óc gia đình nên công việc hay có sự lôi kéo người thân tham gia . Như vậy sự tốt xấu đều tùy thuộc vào cung Mão và cung Phúc tại Ty..
Nếu các cung này xấu là người tha phương, nay đây mai đó, lạc lõng tình thương, mồ côi, nương thân nơi người khác, duyên nợ lận đận, khó khăn. Ngoài ra cung Dậu còn là cung Thiên Di thứ hai nên hay đi xa và càng làm gia tăng các tính nói trên.
Nếu các cung này xấu là người tha phương, nay đây mai đó, lạc lõng tình thương, mồ côi, nương thân nơi người khác, duyên nợ lận đận, khó khăn. Ngoài ra cung Dậu còn là cung Thiên Di thứ hai nên hay đi xa và càng làm gia tăng các tính nói trên.
Tuy nhiên vì cung Điền là cung Đế Tinh và cũng là cung Phúc thứ hai nên đi đâu cũng có nơi ăn chốn ở, hậu vận vẫn có nơi chốn cư trú yên ổn, trở về mái nhà xưạ Nếu lập nghiệp nơi xa cũng lôi kéo và là nơi trú ngụ tạm thời cho người thân.
Đặc điểm tốt là cung Quan tại Mùi nhị hợp cung Ngọ Đế tinh nên thường thân cận với người có chức quyền, có tài, có khả năng giúp đỡ mình.
Trường hợp cung Dậụ Sách xưa cho là cung của thần phật, yếm thế. Phải chăng do đây là sinh địa của sao Thiên Hình chủ sự khắc khổ, sát phạt, hình phạt, hình thương, tù tội, nên mới đặt định như vậy ?
Đứng về phương diện trục thì trục Mão Dậu phân chia qua mùa, sự tuần hoàn tuần tự, kế tiếp và liên tục từ xuân hạ sang Thu Đông rồi trở lạị . Nên hai cung Mão Dậu chủ sự thay đổi, biến động không bao giờ ngừng.
Đứng về phương diện quẻ tháng 8 tại cung Dậu là quẻ Phong Địa Quán. Theo tượng quẻ, Tốn ở trên, Khôn ở dưới, là gió thổi trên mặt đất, tượng trưng cho sự cổ động khắp mọi loài, hoặc xem xét khắp mọi loàị Với các yếu tố này ta có thể xem cung Dậu là một loại cung Thiên Di thứ hai vậỵ
Nếu cho cung Mệnh tại Dậu thì cung Phúc tại Hợi, là cung đáy, thuộc trục Tỵ Hợi, nơi có sự quân bình âm dương nghiêng lệch nhất như đã nói ở trên. Cung quan tại Sửu thuộc trục Sửu Mùi, trục chủ sự biến đổi chậm chạp và luôn bị cung lục hại là cung Ngọ đế tinh kiềm chế, cản trở, cung Điền tại Tý cũng là cung đáy, cung tài tại Tỵ cũng thuộc trục Tỵ Hợi, cung Thiên Di tại Mão là cung táo quân chủ sự ràng buộc về gia cang và nhân thế.
Xét về mặt trục và quẻ cũng như xét sự phối hợp tương quan giữa các cung với nhau đều cho thấy một phần nào cung Dậu được gọi là cung của yếm thế, trải qua bao mối buộc ràng trong nhân tình thế thái, tung hoành một thời sau cũng nghiêng về lẽ Đạo.
Do cung Dậu là cung Thiên Di thứ hai nên là mẫu người tha phương, bôn ba khắp chốn, dù trẻ tuổi có sống với gia đình nhưng lại hay thích ở nhà người, chòm xóm. Vận hạn công danh thay đổi liên tục khiến cho bản thân tự có bản lĩnh, tính cương quyết, nhiều mưu trí, có tay nghề khéo tinh xảo, hoặc có tài gia công chế biến vì luôn chú ý đến mọi tiểu tiết để phòng thủ, đôi khi có sự liều mạng để đương đầu, luôn mơ ước một nơi trú ẩn yên ổn dù là gia đình, vật chất hay tâm linh. Nếu gặp nhiều sao tốt thì công danh lên mạnh, có những đột biến trong đời, thỏa chí hạnh phúc, nặng tình gia đình lo toan mọi mặt (Phu Thê và Tử Tức là hai cung nhị hợp Ngọ và Mùi). Nếu gặp nhiều sao xấu trong các cung trên thì suốt đời bị đè nén, phát nhanh tàn nhanh, hay gặp hiểm nguy, người thân trong gia đình hay gặp chuyện không may, sống đời cô độc, thoát ly trần tục.
Trường hợp cung Thìn. Do cung Thìn là cung Thiên La nên ở đây cần Tuần, Triệt hoặc hung tinh đắc cách nhất là Kình Dương để mở lưới giăng trên đầu, giải trừ hung họạ Đây là mẫu người tuổi trẻ thường chịu nhiều vất vả nhưng có tính chiến đấu rất cao, giỏi chịu đựng, có niềm kiêu hãnh riêng trong lòng (cung Phúc tại Ngọ Đế tinh), dám làm bạo, chủ trương táo bạo và quan niệm sống khác người, không có sự cầu xin. Cung nhị hợp là cung Dậu, loại cung Thiên Di thứ hai, nên ra ngoài thành công hay thất bại tùy thuộc rất nhiều vào cung nàỵ
Trường hợp cung Tuất. Do cung Tuất là cung Địa Võng nên ở đây cũng cần các sao như trường hợp ở cung Thìn. Vị trí cung này tốt hơn vì dù sao cung Tài vẫn là cung Ngọ Đế tinh, cung Quan ở Dần là nơi sinh ra Cục, vị trí âm dương quân bình nhất nên là người mẫu mực, thẳng thắn, óc thực tế với thân phận hiện tại và thời cuộc, dễ thành công, biết hài hòa giữa tham vọng và sự thiệt hạị Cho nên dù gă.p sao xấu đời có lúc tăm tối nhưng cũng có cơ hội vươn lên nhờ không chạy theo hào nhoáng
Trường hợp cung Ty.. Do thuộc trục Tỵ Hợi vốn dĩ thế quân bình âm Dương đã bị nghiệng lệch tuyệt đối, lại thêm cung Dậu là cung Thiên Di thứ hai nên là cách phiêu bồng giang hồ, đa tình, đa lụy, đa sầu, xuất ngoại là tốt hơn hết. Tuy nhiên nếu gặp sao tốt và hợp cách trở thành người lịch lãm, phong lưu khoái lạc, đời thong dong, thích hợp những ngành nghề lưu động, thuyết phục, ý tưởng, như quảng cáo, du lịch, tư vấn, ngoại giao, bán bảo hiểm, chủ hụi, vận chuyển, thông tin, tin chuyện đồng bóng, huyền bí và làm từ thiện, tu hành đạo đức, nhà nghiên cứu, học giả.
Trường hợp cung Hợi cũng giống như trường hợp cung Tỵ, nhưng vì là cung đáy và cung Mão với quẻ Lôi Thiên Đại Tráng, cũng là cung Táo Quân, nên tuy vẫn là cách giang hồ phiêu bồng, chóng chán, nhưng cũng có lúc phát nhanh tàn nhanh trong cơ nghiệp.
Nói chung ở đây chỉ nêu ra những kinh nghiệm đã từng ứng dụng trong việc tổng hợp phân loại trên nhiều lá số. Vấn đề còn nhiều bí ẩn, vì tính chất căn bản của mỗi cung đã bị các sao làm đảo lộn khá nhiều nên khó có thể nhìn thấỵ . Cần nêu ở đây là ta vẫn có niềm tin rằng qua sự phân định của các trục , ắt hẳn mỗi cung phải tồn tại một tính chất riêng tư nào đó , làm căn bản nhằm giải thích những trường hợp về khởi điểm của các sao, sự mâu thuẫn vị trí đắc hãm khi dựa vào ngũ hành, cùng tính chất đặc thù của chúng, cũng như xem các cung đại hạn, tiểu hạn.